Marie Curie là một trong những nhà khoa học nổi tiếng hàng đầu thế giới, bà được nhớ đến với công trình nghiên cứu tiên phong về phóng xạ. Không chỉ mang về cho bà hai giải Nobel, Marie Curie còn được công nhận là "mẹ đẻ của vật lý hiện đại". Nghiên cứu của bà về các nguyên tố phóng xạ polonium và radium để lại một di sản khoa học trường tồn nhưng chính những chất này cũng tác động lâu dài đến cơ thể bà, tạp chí IFL Sience ngày 25/05 đưa tin.
Theo đó, Marie Curie không chỉ là người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel mà còn là người phụ nữ duy nhất nhận giải trong hai lĩnh vực khác nhau. Năm 1896, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel đã nhận thấy rằng các muối uranium phát ra các tia tương tự như tia X ở khả năng xuyên qua các vật thể. Phát hiện này đã truyền cảm hứng cho Curie, bà đã tìm hiểu công trình của Becquerel như một phần trong luận án.
Bà cùng chồng, Pierre Curie, bắt đầu làm việc và cuối cùng phát hiện hai nguyên tố phóng xạ mới là radium và polonium vào năm 1898. Công trình này đã giúp vợ chồng Curie nhận một nửa giải Nobel Vật lý năm 1903, còn nửa còn lại thuộc về Becquerel.
Sau đó, vào năm 1911, sau nhiều bi kịch cá nhân (Pierre Curie đột ngột qua đời năm 1906), Marie Curie tiếp tục nghiên cứu và được trao giải Nobel Hóa học vì thành công trong việc cô lập radium tinh khiết. Bà tiếp tục cống hiến để nghiên cứu tính chất hóa học của các chất phóng xạ và ứng dụng chúng trong y học.
Trên thực tế, nếu không có nghiên cứu của Curie, các phương pháp điều trị ung thư của chúng ta có thể sẽ không phát triển như ngày nay. Dù sử dụng các biện pháp phòng ngừa, việc tiếp xúc với các chất này thường xuyên trong một thời gian dài khiến Curie phải trả giá.
Ngày 4/7/1934, Marie Curie qua đời do thiếu máu bất sản vì làm việc nhiều với các bức xạ. Giống như tên của nó, thiếu máu bức xạ không chỉ là thiếu máu; nó là một bệnh về máu hiếm, xuất hiện khi tủy xương không thể tạo đủ tế bào máu mới để cơ thể hoạt động bình thường.
Khi Curie qua đời, thi thể của bà nhiễm phóng xạ đến mức phải đặt trong một chiếc quan tài lót chì. Tuy nhiên, không ai biết điều này cho đến năm 1995 khi quan tài được khai quật.
Thời điểm đó, chính quyền Pháp muốn chuyển vợ chồng Curie đến lăng mộ quốc gia Panthéon, để vinh danh những đóng góp của họ cho khoa học và là biểu tượng trong lịch sử nước Pháp.
Đội chịu trách nhiệm khai quật đã liên hệ với cơ quan bảo vệ bức xạ Pháp bởi những lo ngại về bức xạ còn sót lại và yêu cầu hỗ trợ để bảo vệ những công nhân lao động tại nghĩa trang.
Khi những người khai quật đến gần ngôi mộ của họ, đã phát hiện ra mức độ phóng xạ bình thường trong không khí, sau đó, mức độ này tăng lên khi ngôi mộ được mở ra dù không nhiều. Mới đầu, quan tài của Marie Curie có vẻ như được làm bằng gỗ, nhưng khi mở ra, họ thấy nó được lót bằng chì dày 2,5 mm (0,09 inch).
Cuộc kiểm tra sau đó cho thấy cơ thể của Curie được bảo quản rất tốt, chỉ phát hiện thấy nhiễm alpha và beta ở mức độ nhỏ. Theo tạp chí Journal of British Society for the History of Radiology, điều này có thể do cuối đời Curie đã thực hiện những bước để hạn chế tiếp xúc với bức xạ.
Tuy nhiên, sau 100 năm, nhiều đồ đạc của cô ấy, bao gồm đồ nội thất, sách dạy nấu ăn, quần áo và ghi chú trong phòng thí nghiệm vẫn còn nhiễm phóng xạ cực mạnh . Những đồ này được bảo quản trong các hộp lót chì và trưng bày tại Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris. Người tham quan chỉ được phép tiếp cận những đồ vật này sau khi ký giấy miễn trừ trách nhiệm pháp lý và mặc quần áo bảo hộ để tránh tiếp xúc với radium-226.
Đồng vị đặc biệt này có chu kỳ bán rã khoảng 1.600 năm, nó giống như một lời nhắc nhở về di sản của Marie Curie và những cảnh báo về nguy cơ phóng xạ.
HL (SHTT)