Vương Trinh Nghi sinh ra trong một gia đình có công danh học thức ở Giang Tô, Trung Quốc, vào năm thứ 33 của triều đại Hoàng đế Càn Long (1768).
Ông nội của bà là Vương Giả Phụ từng làm tri phủ với nguyên tắc vàng: “Quan thanh liêm, thương dân như con, xem phủ như nhà”. Cha của bà, Vương Tích Sâm từng làm quan huyện thừa, vì nhiều lần thất bại trong các kỳ thi của triều đình, ông đã chuyển sang nghiên cứu y học và trở thành thái y nổi tiếng một phương.
Vương Trinh Nghi từ nhỏ may mắn nhận được sự giáo dục rất tốt. Năm 1779, Vương Giả Phủ qua đời ở Đông Bắc khi bị đày đến Cát Lâm vì tội ăn nói phạm thượng, để lại cả một kho tàng trí thức gồm 75 tủ đựng sách cực lớn cho Vương Trinh Nghi, khi đó bà chỉ mới 11 tuổi.
Với bộ sưu tập sách đồ sộ do ông nội để lại, Vương Trinh Nghi ngày đêm đắm chìm trong bể tri thức. Thậm chí, bà còn viết câu “Đời người học hành làm gì có nghèo khổ, trong khi nắm giữ tri thức là báu vật trân quý” để khích lệ chính mình.
5 năm sau khi ông nội qua đời, Vương Trinh Nghi gần như đọc hết kho tàng sách mà ông để lại. Năm 16 tuổi, bà từ Đông Bắc trở về quê hương ở Giang Tô với cha mẹ, sau đó theo cha và bà nội để hành y khắp nơi.
Trong hơn 2 năm, bà đã đi chu du tứ phương, quãng đường hành trình dài đến mức đếm không xuể: từ Đông Bắc đến Giang Tô, lại từ Nam Kinh đến Bắc Kinh, sau đó đến Thiểm Tây, Hồ Nam, và thậm chí về phía Đông của Quảng Đông.
Năm 18 tuổi, Vương Trinh Nghi trở lại Nam Kinh, bà bắt đầu tự do nghiên cứu và khám phá khoa học của riêng mình.
Bắt đầu là toán học mà ông nội đã dạy từ nhỏ. Từ 13 tập của “Đức phong đình sở tập” của Vương Trinh Nghi để lại, chúng ta có thể phát hiện nghiên cứu của bà liên quan đến các hàm lượng giác và định lý Pitago.
"Lời giải Tam giác Pitago" chiếm một phần đáng kể trong nghiên cứu của bà, phân tích chi tiết các công thức hàm số lượng giác đến từ phương Tây mà lúc đó chưa một ai hiểu hết. Những nghiên cứu này có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của số học Trung Quốc.
Vương Trinh Nghi nhận thức sâu sắc điểm này, vì vậy bà không chỉ cố gắng lý giải "Tây học", mà còn đơn giản hóa và biên tập lại "Mai thị toán học" của Mai Văn Đỉnh, bộ công trình nghiên cứu vốn được ông nội bà rất coi trọng.
Bà đã tổng hợp "Tính lịch" thành "Giản hóa tính lịch" và điều chỉnh "Trù toán nguyên bản" (số học tính bằng que) của Mai Văn Đỉnh thành "Diễn giải trù toán". Điều đáng tiếc là hai tác phẩm này tổng cộng 7 cuốn đều đã bị thất lạc.
Duy nhất cuốn "Đức phong đình sở tập" là còn lại, trong đó bà có phàn nàn về cách trình bày phức tạp, rườm rà của số học trong sách của Mai Văn Đỉnh và nêu rõ mục đích của việc biên tập lại nghiên cứu của ông là đơn giản hóa để các thế hệ sau học hỏi.
Trong cuốn sách “Tính lịch” của Mai Văn Đỉnh có chỉ ra các hiện tượng thiên văn như: Nhật thực, Nguyệt thực.
Trong lĩnh vực thiên văn, Vương Trinh Nghi còn để lại những tác phẩm như “Biện giải tuế sai trục” (hay chính là Tiến động trục quay, sự biến thiên rất chậm và liên tục của định hướng trục quay của một thiên thể), “Phân biệt Hoàng đạo và Xích đạo” và “Luận trái đất hình tròn”.
Đối với người xưa, khái niệm Tuế sai trục có nghĩa là vị trí của cùng một ngôi sao thay đổi đôi chút vào cùng một ngày hàng năm. Sau nhiều thập kỷ tích lũy, sự thay đổi này sẽ có tác động lớn đến tiết khí và lịch thời gian.
Những gì Vương Trinh Nghi đã làm là tổng hợp các lý thuyết của Ngu Hỷ, Tổ Xung Chi, Tăng Nhất Hành, Quách Thủ Kính và những người tiền nhiệm khác, đồng thời kết hợp lịch của Trung Quốc và phương Tây, cuối cùng đưa ra một kết luận chính xác hơn rằng "cứ 70 năm, ngày đông chí lùi lại 1 độ”.
Đặc biệt, Vương Trinh Nghi đã xác nhận tính đúng đắn của thuyết “trái đất hình cầu” thông qua các "thí nghiệm đất" khác nhau trong khi thuyết "trời tròn và đất vuông" vẫn còn phổ biến vào thời điểm đó. Đây chính là một nhận thức khoa học rất tiên tiến vào giữa thời nhà Thanh.
Vì lý do này mà trong công trình nghiên cứu tiếp theo, Vương Trinh Nghi đã giải thích một cách chính xác mối quan hệ vị trí của mặt trời, trái đất và mặt trăng khi xảy ra Nhật thực và Nguyệt thực cùng với nguyên nhân của các hiện tượng thiên văn này. Sau đó bà đã viết cuốn "Lý giải Nguyệt thực" để hậu thế học hỏi.
Sau đó, thành tích nghiên cứu của Vương Trinh Nghi được lan truyền sang vùng đất phương Tây xa xôi thông qua các nhà truyền giáo. Nhờ đó, bà đã trở thành một ngôi sao sáng trong lĩnh vực khoa học, được mệnh danh là "Marie Curie của Trung Quốc".
Tuy nhiên, bất hạnh thay, Vương Trinh Nghi qua đời vì bạo bệnh ở tuổi 29. Một số lượng lớn bản thảo kết quả nghiên cứu khoa học cũng bị thất lạc sau đó, chỉ một phần rất nhỏ còn sót lại nhưng cũng đủ để chúng ta thấy được sự vĩ đại của bà.
Mộc Miên (Nguoiduatin.vn)