Đầu đội đầy hoa, mặc một bộ trang phục lộng lẫy, trên chân là đôi giày cờ "đáy chậu hoa" nhỏ giống như cà kheo. Bộ trang phục này có thể nói là trang phục tiêu chuẩn dành cho các phi tần, tiểu thư trong các bộ phim truyền hình về cung đình nhà Thanh mà chúng ta ai cũng từng xem qua. Vậy tại sao giày của phụ nữ thời này lại thiết kế lênh khênh như “đáy chậu hoa” khó đi như vậy?
Giày cờ - đôi giày lịch sử thể hiện sự khéo léo độc đáo của người xưa
Khi nói đến đôi giày cờ của phụ nữ Mãn Châu thời nhà Thanh, đương nhiên trước tiên chúng ta phải nói đến đặc điểm bắt mắt nhất của chúng là phần đế độc đáo. Trong các phim cung đấu, nữ nhân sẽ xuất hiện với một đôi giày cờ có đế cao được làm từ gỗ hoặc tạc từ ngọc, đế rất nặng nhưng mỏng manh, khi đi sẽ rất dễ bị trượt ngã, rõ ràng không phù hợp với mục đích ban đầu của giày dép.
Trên thực tế, phần trên của giày cờ là giày nữ cỡ bình thường (hơi hẹp và mỏng, vì thẩm mỹ Mãn Châu cuối thời nhà Thanh ưa chuộng bàn chân nhỏ. Dù không bó chân nhưng họ sẽ sử dụng giày chật để chân trông thật nhỏ). Còn ở phần đế, một đế gỗ bổ sung được thêm vào, được gọi là tahan trong tiếng Mãn.
Đế gỗ này được làm bằng gỗ nguyên khối, bền và không dễ mòn. Phần trên giày có bị mòn đến đâu thì đế gỗ sau bao năm vẫn còn nguyên vẹn. Đế gỗ được bọc vải trắng hoặc sơn trắng, phần tiếp xúc với mặt đất được khâu bằng vỏ chần hoặc vải dày để tăng độ thoải mái và ma sát.
Phụ nữ cuối thời nhà Thanh cấm kỵ đi giày không trang trí, ngoài phần mũ giày thường được trang trí bằng thêu, viền, tua rua, thậm chí đôi khi đế gỗ còn được khảm trang sức, hoa văn thêu,... Thậm chí, những người chu đáo hơn sẽ khoét rỗng đế gỗ, hoặc nhét chuông để tạo ra âm thanh khi đi bộ; hoặc lấp đầy bên trong bằng cát trắng mịn và đục những lỗ nhỏ ở đế để có thể in những hình dạng như hoa, bướm,...
“Đế giày chậu hoa” để làm gì?
Giày cờ của cuối thời nhà Thanh có thể được chia thành hai loại theo chiều cao của đế gỗ: giày đế lọ hoa và giày đế dày. Nổi tiếng nhất đương nhiên là “đế chậu hoa”, hay còn gọi là “giày đế cao”. Chiều cao của đế gỗ phải ít nhất 7 cm, ngang ngửa giày cao gót thời hiện đại. Kết hợp với phần trên, chiều cao mỗi đôi giày này có thể lên tới 20 cm.
Thiết kế đế chậu hoa cổ điển nhất rộng ở đầu trên và dưới và lõm ở giữa, hơi giống đồng hồ cát. Trọng tâm của “đáy chậu hoa” rơi vào giữa lòng bàn chân, diện tích tiếp xúc với mặt đất nhỏ, hơn nữa chiều cao thường lớn hơn 10 cm, hiển nhiên đôi giày cờ sẽ cản trở việc chuyển động của phụ nữ. Quả thực, đôi giày này rất khó đi.
Tuy nhiên, chính vì khó đi như vậy nên giày cờ mới ra đời, vì nó khiến phụ nữ đi lại cẩn thận, nhỏ nhẹ và uyển chuyển hơn. Khi kết hợp với nhiều loại trang phục váy vóc phía trên, nó có thể khiến người phụ nữ trông cao ráo và duyên dáng, hạn chế bước đi và duy trì phong thái “đi như bất động” nên rất được ưa chuộng. Các phi tần, phu nhân, tiểu thư khuê các đi giày càng uyển chuyển, nhẹ nhàng và khéo léo thì càng chứng tỏ sự sang trọng, thanh lịch của mình nên đây đã trở thành một “kĩ năng” cần thiết cần phải luyện tập. Bên cạnh đó, giày khó đi càng hạn chế phụ nữ đi lại và điều đó lại góp phần thể hiện địa vị cao quí, có người hầu kẻ hạ hoặc không cần rời khuê phòng nhiều của phụ nữ phong kiến.
Phụ nữ thời nhà Thanh có thể đi giày đến cao bắt đầu từ 13 hoặc 14 tuổi. Nó không chỉ là tiêu chuẩn trang phục trong cung đình mà còn dành cho giới thượng lưu. Phong tục Mãn Châu cho rằng việc đi giày đế bằng của phụ nữ là "không thanh lịch", trừ khi là người dân nghèo. Các cô gái tuy chưa phải chịu hủ tục bó chân nhưng vẫn bị “trói” lại bằng đôi giày cờ của mình.
Điều thú vị là ở Nhật Bản, Châu Âu và các khu vực khác, giày nữ tương tự như "đáy lọ hoa" cũng xuất hiện, mặc dù mục đích ban đầu của chúng có thể chỉ là để chống bùn và vết ố nhưng sau đó ngày càng trở nên “cường điệu” và hoàn toàn không thực tế.
Theo Chi Chi (Phụ Nữ Mới)