Quốc hội chính thức chốt mức hưởng, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp

16/06/2025 10:23:45

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp và thời gian hưởng tối đa 12 tháng.

Sáng 16-6, với đa số đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2026. Trong đó có nội dung được nhiều người lao động quan tâm là mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng.

Quốc hội chính thức chốt mức hưởng, thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp
Quốc hội biểu quyết thông qua Dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Ảnh: Phạm Thắng

Trong báo cáo tiếp thu, giải trình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết có ý kiến đề nghị nâng mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng lên tối thiểu 65% và cho phép Chính phủ điều chỉnh tăng lên tối đa 75% trong trường hợp khủng hoảng kinh tế, dịch bệnh quy mô lớn. Có ý kiến đề nghị tăng mức hưởng lên 70% nhưng không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng và cứ mỗi 6 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng tối đa không quá 12 tháng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát và thấy rằng việc Quỹ bảo hiểm thất nghiệp kết dư thời gian qua chủ yếu được tích lũy từ giai đoạn trước, do được Ngân sách nhà nước hỗ trợ hằng năm, khi đó, số đối tượng thụ hưởng các chế độ còn ít. Nhưng từ năm 2020 đến nay thì số thu và chi bảo hiểm thất nghiệp hằng năm là cân bằng nhau.

Theo kinh nghiệm của các quốc gia thực hiện thành công chính sách bảo hiểm thất nghiệp hoặc bảo hiểm việc làm (Canada, Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan…) và quy chuẩn quốc tế về bảo hiểm thất nghiệp thì mức trợ cấp thất nghiệp không ít hơn 45% của thu nhập trước đó hoặc không ít hơn 45% của tiền lương tối thiểu theo quy định hoặc của tiền lương của người lao động bình thường nhưng không ít hơn mức sống cơ bản tối thiểu; thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối thiểu là 12 tuần (3 tháng) trong thời kỳ 12 tháng.

Bộ luật Lao động (Điều 47 và Điều 48) quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc được trợ cấp ½ tháng tiền lương (50% mức tiền lương)) và trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ 12 tháng trở lên (mỗi năm làm việc trả 1 tháng tiền lương (100% mức tiền lương)) nhưng ít nhất phải bằng 2 tháng tiền lương (tối thiểu 200% mức tiền lương).

Mức hưởng là 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trong 3 tháng tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế và các mức trợ cấp mà người lao động được nhận khi mất việc làm theo quy định hiện hành. Mức này bảo đảm cho người lao động giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống trong thời gian thất nghiệp cho tới khi tìm được việc làm mới; phù hợp với nguyên tắc đóng - hưởng và khả năng cân đối thu chi của Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được giữ như dự thảo Luật. Cụ thể tại Điều 39 Luật Việc làm (sửa đổi) đã quy định chi tiết mức hưởng, thời gian hưởng, thời điểm hưởng và hồ sơ, trình tự, thủ tục hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Theo đó, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng đã đóng bảo hiểm thất nghiệp gần nhất trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc chấm dứt làm việc nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu tháng theo vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại tháng cuối cùng đóng bảo hiểm thất nghiệp.

Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được tính theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp, cứ đóng đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó, cứ đóng đủ thêm 12 tháng thì được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp thất nghiệp nhưng thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa 12 tháng.

Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp là ngày làm việc thứ 11 kể từ ngày nộp đủ hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.

Về quy định chuyển tiếp luật quy định người lao động và người sử dụng lao động đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành nhưng chưa có quyết định hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp thì thực hiện theo quy định tại Luật này.

Theo Văn Duẩn - Minh Chiến (Nld.com.vn)

Nổi bật