Trận Xích Bích là một trận đánh lớn cuối thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện chia ba thời Tam Quốc. Trận đánh diễn ra vào mùa Đông năm Kiến An thứ 13 (tức năm 208) giữa liên quân Tôn Quyền-Lưu Bị với quân đội lấy danh nghĩa triều đình của Tào Tháo.
Bối cảnh dẫn đến trận Xích Bích là giai đoạn Tào Tháo giành thắng lợi liên tục trong các chiến lớn. Bao gồm đánh bại Viên Thiệu ở trận Quan Độ năm 202 qua đó thống nhất vùng bình nguyên Hoa Bắc, tiêu diệt bộ tộc Ô Hoàn năm 207 ổn định hoàn toàn biên giới phía Bắc, dễ dàng kiểm soát Kinh Châu sau khi Lưu Biểu chết và con trai Lưu Tông đầu hàng, nối tiếp bằng thắng lợi trước quân dân của Lưu Bị ở Trường Bản.
Xét về lực lượng, Đại quân Tào Tháo trong trận Xích Bích vượt trội hoàn toàn so với liên quân Tôn – Lưu. Theo ghi chép chính sử, quân Tào có khoảng 220.000, trong đó đã bao gồm khoảng 7 vạn hàng binh Kinh Châu. Liên quân Tôn – Lưu, trong khi đó, chỉ khoảng 5 vạn gồm 3 vạn quân của Tôn Quyền giao cho Chu Du chỉ huy, 10.000 quân Lưu Bị và 10.000 quân của Lưu Kỳ.
Nhưng trận Xích Bích kết thúc với thắng lợi của phe Tôn-Lưu trước đại quân Tào Tháo. Chiến thắng này đã góp phần củng cố vị trí của Tôn Quyền vào Lưu Bị ở hai bờ Trường Giang đồng thời ngăn cản việc Tào Tháo mở rộng phạm vi quyền lực xuống phía Nam Trung Hoa, tạo cơ sở cho sự hình thành hai nước Thục Hán và Đông Ngô sau này.
Đa số học giả cho rằng thất bại nhanh chóng và nặng nề của Tào Tháo là kết quả của những sai lầm chiến thuật liên tiếp từ phía quân Tào cũng như chiến thuật tấn công hiệu quả của Hoàng Cái và liên quân Tôn-Lưu. Ngược lại với những tính toán sáng suốt và hợp lý trong các chiến dịch toàn thắng trước đó, ở Xích Bích Tào Tháo suy nghĩ đơn giản rằng sự vượt trội về số lượng binh lính sẽ giúp ông đánh bại thủy quân đầy kinh nghiệm của liên quân Tôn-Lưu.
Sai lầm chiến lược đó đã dẫn đến sai lầm chiến thuật tiếp theo, đó là Tào Tháo ra lệnh cho lực lượng rất lớn bộ binh và kị binh của ông chuyển sang chiến đấu như thủy binh chỉ trong một thời gian ngắn trước trận chiến, rất nhiều người trong số họ đã say sóng khi lên thuyền và thậm chí cũng không biết bơi do xuất thân là người phương Bắc.
Cộng thêm vào những sai lầm chiến thuật của Tào Tháo là nạn bệnh dịch ở phương Nam cùng sự suy giảm tinh thần trong quân sĩ do phải xa nhà quá lâu và liên tục hành quân, chiến đấu trong thời gian dài. Theo như Gia Cát Lượng thì: "Mũi tên dù cứng nhưng đến cuối tiễn đạo cũng không thể xuyên qua áo lụa mỏng".
Sai lầm có hệ thống trong chiến dịch chinh phạt miền Nam của Tào Tháo ngoài ra còn được cho là xuất phát từ cái chết của Quách Gia - quân sư toàn thắng trong đội ngũ tham mưu của ông. Chính Tào Tháo cũng nói rằng: "Nếu như có Quách Gia thì ta không bao giờ rơi vào tình cảnh thế này”. Nhưng nếu quay ngược thời gian, trở về thời điểm Tào Tháo lấy Kinh Châu, thì sớm đã có người can gián Tháo không nên tiếp tục khởi binh đối đầu liên quân Tôn – Lưu. Người đó chính là Giả Hủ.
Khi đó Giả Hủ đã khuyên Tào Tháo thế này: "Nếu để binh sĩ nghỉ ngơi, úy lạo bách tính, khiến dân an cư lạc nghiệp, thì không cần phí sức cũng có thể khuất phục Giang Đông". Trước khi đưa ra những lời này, năng lực của Giả Hủ sớm đã được kiểm chứng kĩ càng qua trận Uyển Thành (khi còn theo Trương Tú) hay lần hiến kế giúp Tào đả bại Viên Thiệu ở Quan Độ.
Nhưng Tháo đã không nghe Hủ. Do Tháo thắng như chẻ tre nên kiêu binh, hay vì bất kì nguyên nhân chủ quan hay khách quan nào khác, thì kết cục là Tháo đã đại bại ở Xích Bích, hao binh tổn tướng lại tạo cơ hội cho 2 thế lực đối đầu Tôn – Lưu củng cố vị trí, mở ra thế “chia ba thiên hạ”.
Giả Hủ chính là người duy nhất trong số những mưu sĩ của Tào Tháo thời điểm ấy, đưa ra quan điểm không đánh Tôn – Lưu. Và đấy là bằng chứng cho thấy tài trí và tầm nhìn chiến lược vượt trội của nhân vật này. Việc Giả Hủ khuyên Tào Tháo không đánh mà nghỉ để chờ thời cơ tốt, hoàn toàn có lý.
Thứ nhất, sau giai đoạn gần chục năm chinh chiến, nhân lực và tài lực của khu vực Trung Nguyên - Hoa Bắc cạn kiệt. Cho nên việc "khoan thai lại sức dân" là điều cần thiết. Hơn nữa, quân Tháo rõ ràng đông lên, nhưng chất lượng không đi cùng mà muốn Nam chinh thành công thì phụ thuộc rất nhiều vào Thủy chiến - vốn không phải thế mạnh của quân đội phương Bắc. Tào Tháo khi chiếm được Kinh Châu, cũng phải dùng thủy quân Kinh Châu (vốn không thể tin tưởng hoàn toàn) để dùng cho chiến dịch Nam phạt. Giả Hủ sớm toan tính được cái khó của Tào Tháo trong trận chiến này.
Thứ hai, Kinh Châu có đủ mầm mống để tự diệt nếu Tào Tháo biết nhẫn. Đó là sự đấu đá của anh em Lưu Tông, Lưu Kì, cùng với đám "ngoại thích" giật dây phía sau; lại thêm Lưu Bị ở đó chưa kể Tôn Ngô Giang Đông cũng tỏ rõ ý đồ tranh đoạt. Không đánh, Kinh Châu – Giang Đông sẽ loạn nhưng nếu đánh, Tào Tháo sẽ tự đẩy mình vào thế phải chống lại liên minh 2 nhà. Rõ ràng cứ để “cò vạc tranh hùng” thì “ngư ông” ở đây là Táo Tháo sớm muộn cũng sẽ hưởng lợi mà không phải hao binh tổn tướng.
Không phải ngẫu nhiên khi Giả Hủ nhận được những lời bình luận có cánh của Trần Thọ trong “Tam Quốc Chí” như thế này: “Giả Hủ toan tính cơ hồ không hề sai sót, có thể đạt đến mức thấu hiểu sự quyền biến, đại khái là gần được như Lương, Bình vậy”. Lương là Trương Lương, Bình là Trần Bình, những đại mưu sĩ siêu hạng của Hán Cao Tổ Lưu Bang.
Dịch Trung Thiên bình luận Giả Hủ có thể là người thông minh nhất thời Tam Quốc, giỏi biết tính người, nhìn thấu tâm tư người khác, Giả Hủ "liệu việc như thần" là vì "hiểu người như thần", "biết người cũng tự biết mình". Nhiều mưu sĩ thời Tam Quốc có kết cục vô hậu, như những người bên Tào Tháo, có người chết yểu (Quách Gia), có người phản lại (Mao Giới), có người chết thần bí (Tuân Úc), có người chết oan (Hứa Du). Giả Hủ thì an nhàn vô lo, sống đến trọn đời.
Những điển tích đặc tả tài trí siêu hạng của Giả Hủ
Sau khi giúp Đổng Trác dẹp Hàn Toại, phát triển quyền lực và tiến vào Kinh Đô Lạc Dương, phế Hán Thiếu Đế lập Hán Hiến Đế làm vua bù nhìn, Giả Hủ sớm dự đoán được sự bại vong của một Đổng Trác tàn bạo bất nhân, bèn lập kế xin ra Thiểm Tây để tránh liên lụy về sau.
Năm 192, Hủ hiến kế phao tin Vương Doãn muốn giết hết người Tây Lương cho Lý Thôi – Quách Dĩ, để từ đó kích động quân binh và tập hợp lực lượng đông đảo đánh bại Lã Bố, chiếm Trường An. Sau khi thành công, đáng nói Giả Hủ lại không nhận tước hầu cũng từ chối chức thượng thư.
Hiến kế cho Trương Tú giả vờ đầu hàng Tào Tháo và sau đó bày mưu dùng hỏa công tập kích trong trận chiến Uyển Thành, tiêu diệt toàn bộ quân Tào năm 197. Trong thất bại này, Tháo mất cả tướng yêu Điển Vi và con trai Tào Ngang.
Năm 199, khuyên Tú không nên gia nhập với đại quân Viên Thiệu để chống Táo mà ngược lại đầu hàng Tào Tháo. Chi tiết cho thấy tầm nhìn siêu hạng của Hủ. Giả Hủ sau đó hiến kế cắt đứt nguồn cung cấp lương thảo của Viên Thiệu trong trận đánh ở Ô Sào, thắng lợi bản lề giúp Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu ở Quan Độ, thống nhất Trung Nguyên.
Năm 208, Giả Hủ khuyên Tào Tháo rằng không nên tiếnđánh Đông Ngô sau khi thu được Kinh Châu, nhưng ý kiến này không được chấp nhận và kết quả là Tào Tháo đã đại bại trong trận Xích Bích.
Năm 211, quân Tây Lương do Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu tấn cống quân Tào ở Đồng Quan. Giả Hủ hiến kế cho Tào Tháo ly gián Mã Siêu và Hàn Toại bằng việc xóa bức thư gửi cho Hàn Toại và thông báo cho Mã Siêu biết gây nghi ngờ nội bộ. Kế ly gián này mang tính then chốt của chiến thắng của Tào Tháo trong chiến dịch Đồng Quan.
Năm 220, Tào Phi bãi bỏ Hán Hiến đế và lên ngôi hoàng đế, có hỏi Giả Hủ xem Ngụy có nên tấn công Đông Ngô hay Thục Hán hay không. Giả Hủ can rằng, thực lực quân Ngụy vẫn chưa đủ sức để tấn công Ngô hay Thục. Tào Phi không nghe lời ông và sau đó chuốc lấy thảm bại khi đánh Đông Ngô.
TẦM HOAN (SHTT)