Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), sự thay đổi này sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu dầu mỏ, từ đó tăng cường an ninh năng lượng quốc gia. Một trong những tác động trực tiếp là giảm tiêu thụ xăng và dầu diesel, vốn là nhiên liệu của các phương tiện truyền thống.
Nếu Việt Nam thực hiện theo kịch bản tăng tốc giảm phát thải carbon, tổng lượng xăng và dầu diesel tiết kiệm được có thể lên tới gần 900 triệu lít vào năm 2050. Quy đổi ra thùng dầu, con số này tương đương khoảng 6.224 triệu thùng dầu được tiết kiệm. Với giá dầu quốc tế hiện tại, tổng chi phí nhập khẩu dầu mà Việt Nam có thể tiết kiệm được ước tính khoảng 498 tỷ USD vào năm 2050.
Bên cạnh lợi ích kinh tế, việc chuyển đổi sang phương tiện điện còn góp phần giảm thiểu ô nhiễm không khí cục bộ. Ước tính, chi phí thiệt hại môi trường do ô nhiễm không khí có thể giảm 30 triệu USD vào năm 2030 và đạt mức giảm 6,4 tỷ USD vào năm 2050.
Tuy nhiên, WB nhận định rằng tác động giảm phát thải khí nhà kính từ việc chuyển đổi này sẽ còn khiêm tốn đến năm 2030, chủ yếu do xe máy điện chiếm phần lớn trong giai đoạn này. Sau năm 2030, đặc biệt từ năm 2035, khi quá trình chuyển đổi dần dịch chuyển sang ô tô, xe tải và xe buýt liên tỉnh, tác động giảm phát thải dự kiến sẽ tăng nhanh chóng.
Mặc dù vậy, ngay cả khi tất cả các mục tiêu về sử dụng xe điện theo Quyết định 876 năm 2022 của Thủ tướng được thực hiện đầy đủ, tổng mức giảm phát thải khí nhà kính nhờ phương tiện điện sẽ đạt 60% so với mục tiêu Net Zero vào năm 2050, nghĩa là vẫn còn cách mục tiêu khoảng 40%.
Lý do là việc chuyển đổi sang phương tiện điện trong các phân khúc xe hạng nặng đường dài như xe khách liên tỉnh và xe tải vẫn còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 25-40%.
PV (SHTT)