Mỗi năm ngành điện cần 160.000 tỷ đồng

02/08/2016 10:23:00

Theo quy hoạch điện VII (điều chỉnh), tổng vốn đầu tư cho nguồn và lưới điện (không tính nguồn điện đầu tư theo hình thức BOT) giai đoạn 2016 - 2030 khoảng 148 tỷ USD. Chỉ tính riêng từ nay đến năm 2020, mỗi năm ngành điện cần khoảng160.000 tỷ đồng để xây dựng nguồn và lưới điện.

Theo quy hoạch điện VII (điều chỉnh), tổng vốn đầu tư cho nguồn và lưới điện (không tính nguồn điện đầu tư theo hình thức BOT) giai đoạn 2016 - 2030 khoảng 148 tỷ USD. Chỉ tính riêng từ nay đến năm 2020, mỗi năm ngành điện cần khoảng160.000 tỷ đồng để xây dựng nguồn và lưới điện.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, giai đoạn 2016 - 2030, mục tiêu quan trọng hàng đầu của quy hoạch điện VII (điều chỉnh) là cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng được mức tăng trưởng bình quân GDP khoảng 7%/năm. Theo đó, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu đến năm 2020  khoảng 265 - 278 tỷ kWh; năm 2025 khoảng 400 - 431 tỷ kWh và năm 2030 khoảng 572 - 632 tỷ kWh.

Để hoàn thành mục tiêu này, đến năm 2020, tổng công suất các nguồn điện phải đạt khoảng 60.000 MW. Đến năm 2025, tổng nguồn điện phải đạt 96.500 MW và năm 2030 là 129.500 MW. Như vậy, từ nay đến năm 2020, Việt Nam phải hoàn thành và đưa vào vận hành khoảng 21.200 MW công suất nguồn điện các loại.

moi nam nganh dien can 160.000 ty dong hinh anh 1
 

Từ nay đến 2020, mỗi năm ngành điện cần khoảng 7,9 tỷ USD (khoảng hơn  160.000 tỷ đồng) để xây dựng nguồn và lưới điện.  ảnh:Việt Hà

Đối với hệ thống lưới điện truyền tải, từ nay đến năm 2030, tổng chiều dài đường dây 500kV dự kiến xây dựng thêm 10.052km; đường dây 220kV là 14.999km; tổng dung lượng các trạm 500 kV phải bổ sung là 76.650 MVA và 101.604 MVA đối với các trạm biến áp 220 kV.

Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, ông Trần Viết Ngãi khẳng định: Việt Nam là quốc gia đang phát triển nên cần đầu tư nguồn vốn lớn xây dựng hệ thống nguồn và lưới điện đồng bộ. Thực tế cho thấy, để có được hệ thống điện lớn như hiện nay, hơn 40 năm qua, bên cạnh nguồn vốn tự có, được sự bảo lãnh của Chính phủ, EVN còn phải huy động nhiều nguồn vốn khác như: Vốn ODA, vay từ các ngân hàng thương mại… trong đó vốn nước ngoài chiếm 80%.

Số vốn khổng lồ cần có theo quy hoạch điện VII (điều chỉnh)  là một thách thức lớn, vượt quá khả năng tự huy động của EVN. Trong khi xét về nguồn thu, EVN dựa vào giá bán điện là chính. Đặc biệt, trong những năm gần đây, giá nguyên liệu đầu vào cho sản xuất điện như than, khí… ngày càng tăng, dẫn đến giá thành sản xuất điện cũng tăng theo.

Ông Trần Đình Long- Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam cho rằng, ngay cả các nước phát triển cũng chỉ thu xếp được 40-50% vốn tự có phục vụ đầu tư xây dựng, còn lại phải tự đi vay. Trong khi ở Việt Nam, áp lực đầu tư điện hầu như EVN phải “gánh” mà khả năng thu xếp vốn của EVN và các đơn vị thành viên chỉ khoảng 20-30% tổng mức đầu tư cho các dự án điện.

Giải pháp nào “gỡ khó”?

Thực tế hiện nay, giá bán điện tăng không đáng kể và chịu áp lực từ chính sách ổn định kinh tế vĩ mô và các vấn đề an sinh xã hội... Điều này cũng đồng nghĩa với việc lợi nhuận tích lũy của ngành điện cho đầu tư phát triển không nhiều. Mặt khác, với vai trò là doanh nghiệp nhà nước, EVN vẫn phải thực hiện các nhiệm vụ chính trị, an sinh xã hội… dẫn đến nguồn lực bị phân tán.

Đến nay, nguồn vốn khả thi nhất để thực hiện các dự án điện chính là các nguồn vốn vay ưu đãi từ nước ngoài. Tuy nhiên, Chính phủ và các tổ chức quốc tế tài trợ vốn ngày càng thắt chặt các điều kiện cho vay và sử dụng loại vốn này.

Giải pháp có thể “gỡ khó” cho vấn đề này là khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển hệ thống điện. Tuy nhiên, do các dự án điện cần vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lại kéo dài và nhiều rủi ro, trong khi giá bán điện thấp nên rất  khó thu hút các doanh nghiệp tham gia.

Trong quy hoạch điện VII (điều chỉnh), Chính phủ cũng đã đưa ra các nhóm giải pháp tạo nguồn vốn đầu tư phát triển ngành điện như: Thực hiện cổ phần hóa các tổng công ty trực thuộc EVN và các đơn vị năng lượng khác; từng bước tăng khả năng huy động tài chính nội bộ trong các doanh nghiệp ngành điện (vốn tự tích lũy). Bản thân các tập đoàn năng lượng phải nỗ lực nâng cao hiệu quả quản lý, sản xuất, kinh doanh để đạt được tín nhiệm tài chính cao làm cơ sở tự huy động vốn mà không cần bảo lãnh của Chính phủ; tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu trong và ngoài nước; thực hiện liên doanh, liên kết nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các dự án điện cũng như các nguồn viện trợ phát triển ưu đãi, vay thương mại... Bên cạnh đó là giải pháp về giá bán điện theo cơ chế thị trường, tạo môi trường đầu tư, khuyến khích cạnh tranh toàn diện...

Theo các chuyên gia kinh tế, các giải pháp trên khá toàn diện nhưng mang tính định hướng, quan trọng là triển khai như thế nào trong thực tế? Muốn vậy, cần có các cơ chế, chính sách cụ thể, chi tiết và đồng bộ, mới có thể thực sự tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp tham gia. Nếu chỉ riêng EVN hay các tập đoàn năng lượng như TKV, PVN thì chưa thể đủ sức thực hiện.

Theo PGS-TS Nguyễn Minh Duệ - Ủy viên Thường trực Ban Chấp hành Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, để tạo nguồn vốn đầu tư phát triển theo quy hoạch điện VII, phải nhắm đến các giải pháp như tiết giảm chi phí, tăng doanh thu và vay vốn. Tuy nhiên, tính khả thi của tăng doanh thu trên cơ sở tăng giá điện sẽ gặp khó khăn vì sức chịu đựng của các doanh nghiệp, người dân, ảnh hưởng đến lạm phát trong khi việc vay vốn, đặc biệt vay vốn nước ngoài, cũng rất khó…

Ông Trần Đình Long- Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam cho rằng, ngay cả các nước phát triển cũng chỉ thu xếp được 40-50% vốn tự có phục vụ đầu tư xây dựng, còn lại phải tự đi vay. Trong khi ở Việt Nam, áp lực đầu tư điện hầu như EVN phải “gánh” mà khả năng thu xếp vốn của EVN và các đơn vị thành viên chỉ khoảng 20-30% tổng mức đầu tư cho các dự án điện.

Theo Việt Hà (Dân Việt)

Nổi bật