Người Thái đầu tư rất sớm vào Việt Nam
Theo Cục đầu tư nước ngoài, Thái Lan là một trong những quốc gia có quan hệ hợp tác đầu tư vào Việt Nam từ rất sớm, sau khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Thái Lan cũng là nước đứng thứ 10 đầu tư vào Việt Nam tính theo tổng vốn đầu tư lũy kế các dự án có hiệu lực từ năm 1988 đến 20/11/2016. Tính đến nay vương quốc chùa vàng đầu tư 7,75 tỷ USD với 443 dự án vào Việt Nam.
Nếu so sánh với các nước đầu tư khác vào Việt Nam mặc dù Thái Lan không rót nhiều vốn nhưng trải rộng khá nhiều ngành nghề từ công nghiệp chế biến, bán buôn bán lẻ cho đến nông nghiệp. Nhìn lại lịch sử 25 năm đầu tư vào Việt Nam của Thái Lan có thể chia làm 5 giai đoạn chính:
Giai đoạn 1992 – 1993: Thái Lan bắt đầu đầu tư vào Việt Nam từ năm 1992. Tuy nhiên thời kỳ 1992-1993thu hút FDI từ các Thái Lan vào Việt Nam rất khiêm tốn, đạt 7 dự án với tổngvốn đầu tư 52,77 triệu USD.
Giai đoạn 1994 – 1996:
Năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên Asean và đánh giámột bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của ViệtNam cũng như quá trình phát triển của Hiệp hội. Trong giai đoạn này có sự bứt phá về các dự án FDI từ các nước Asean nói chung và từ Thái Lan nói riêng.Trong 3 năm, nếu như có 125 dự án đầu tư vào Việt Nam từ các nước ASEAN với tổng vốn đầu tư đạt khoảng 6,2 tỷ USD, thì Thái Lan đã có đến 30 dư án đầu tư với tổng vốn đầu tư đạt 579,9 triệu USD.
Giai đoạn 1997 – 2005:
Năm 1997, khủng hoảng tài chính bắt đầu nổ ra tại Thái Lan và ảnh hưởng đến 1 số nước trong khu vực và đã ảnh hưởng khá nặng nề tới tình hình thu hút FDI của các nước Asean nói chung và của Thái Lan vào Việt Nam. Kết quả thu hút FDI đi xuống khá nhanh. Trong vòng 8 năm từ 1997 đến 2005, Việt Nam chỉ thu hút được 72 dự án FDI cuả Thái Lan với tổng vốn đầu tư đăng ký 426,97 triệu USD. Năm 1997, chỉ có 9 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư 39,7 triệu USD, giảm hơn một nửa so với cùng kỳ năm 1996; Các năm từ 2001 đến 2005, tình hình thu hút FDI từ Thái Lan đã khả quan hơn song vẫn rất thấp so với giai đoạn trước.
Giai đoạn từ 2006 – 2008:
Đây là giai đoạn đỉnh cao của FDI tại Việt Nam khi gia nhập WTO. Giai đoạn này FDI của Thái Lan vào Việt Nam cũng tăng mạnh. Trong 3 năm từ 2006 – 2008 nếu như các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư đạt 23,3 tỷ USD, riêng Thái Lan đã đầu tư gần 5 tỷ USD, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.
Trong giai đoạn này, các dự án chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo 48 dự án và 4,81 tỷ USD tổng vốn đăng ký) chiếm 98,5% tổng vốn đăng ký của Thái Lan trong giai đoạn này.
Giai đoạn từ 2009 – nay
Sau thời kỳ đỉnh điểm của FDI năm 2007 – 2008 thì cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt nguồn từ khủng hoảng tài chính của Hoa Kỳ đã ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới cũng như tình hình thu hút FDI của Việt Nam. Năm 2009, đầu tư của Thái Lan vào Việt Nam đã giảm mạnh, 26 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 90 triệu USD (bằng 2% so với cùng kỳ năm 2008). Năm 2013 là năm có kết quả thu hút FDI từThái Lan khá cao trong giai đoạn này với 47 dự án và 597 triệu USD tổng vốn đầu tư.
Dấu ấn người Thái tại Việt Nam
Khẩu vị đầu tư của người Thái cũng khá khác so với Hàn Quốc hay Nhật Bản. Nếu như người Hàn đầu tư nhiều vào điện tử, máy móc thì người Thái thích đầu tư vào công nghiệp chế biến. Theo cục đầu tư nước ngoài, lĩnh vực này hiện chiếm 87,2% tổng vốn đầu tư Thái Lan vào Việt Nam. Lĩnh vực đứng thứ 2 là bán buôn, bán lẻ với 88 dự án cấp mới vớn tổng vốn đầu tư đăng ký 268,78 triệu USD.
Vể lĩnh vực hóa dầu, xi măng- vật liệu xây dựng, hóa dầu phải nhắc đến tập đoàn SCG của Thái Lan. SCG bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1992 và hiện đã có SCG có 22 công ty đang hoạt động kinh doanh với hơn 6.500 nhân viên. Theo báo cáo quý I/2016, SCG tại Việt Nam sở hữu tổng tài sản lên đến 14.845 tỷ đồng (675 triệu USD), tăng 2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu bán hàng Quý 1/2016 của tập đoàn đạt 3.336 tỷ đồng (150 triệu USD), tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu nhờ hoạt động của ngành bao bì và gạch men.
Những công ty con của SCG hiện có vị trí quan trọng trong ngành có thể kể đến như CTCP nhựa Bình Minh, nhựa Thiếu niên tiền phong, giấy Kraft Vina, Prime Group, Bao bì Alcamax,…
Hệ thống công ty con của SCG Việt Nam. |
Về mảng bán buôn, bán lẻ không thể không nhắc đến tập đoàn Berli Jucker trong đó công ty lõi là Thai Charoen Corp (TCC Holdings). Năm 2013, tập đoàn này sở hữu 64,55% cổ phần Phú Thái Group bằng việc sở hữu 65% cổ phần CTCP Thái An Việt Nam- đơn vị sở hữu 99% Phú Thái Group. Phú Thái vốn là doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực phân phối và bán lẻ khu vực phía Bắc do doanh nhân Việt Nam Phạm Đình Đoàn sáng lập.
Tiếp đến năm 2015, chính tập đoàn này cũng mua lại hệ thống Metro Cash & Carry Việt Nam từ tập đoàn Metro của Đức với trị giá 655 triệu Euro tương đương hơn 879 triệu USD. Sau khi về tay tập đoàn BJC, Metro Cash & Carry Việt Nam đổi tên thành Mega Market Việt Nam.
BJC hiện còn muốn tham gia lĩnh vực bia, nước giải khát khi từng đánh tiếng mua 40% cổ phần của Sabeco thông qua ThaiBev năm 2014. TCC Holdings còn sở hữu 65% khách sạn Melia Hà Nội thông qua TTC Land nhờ công ty con SAS Trading Ltd.
4 mảng hoạt động của BJC. |
Mảng bán lẻ người Thái cũng góp mặt khi tập đoàn Central mua lại Big C Việt Nam với giá hơn 1 tỷ USD. Tập đoàn này còn tấn công vào lĩnh vực điện máy khi mua lại 49% cổ phần Nguyễn Kim đầu năm 2015. Sau khi góp vốn cùng Nguyễn Kim, hai bên cùng mua lại trang thương mại điện tử Zalora Việt Nam. Ngoài ra Central còn sở hữu chuỗi siêu thị Lan Chi và tập đoàn quản lý khách sạn nghỉ dưỡng Centara. Central Group là một tập đoàn đa ngành thuộc gia đình tỷ phú người Thái Chirathivat, hiện Central Group Việt Nam cơ hơn 6.600 nhân viên.
Mảng nông nghiệp cần nhắc tới tập đoàn CP. C.P hiện là doanh nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực chăn nuôi và thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam, thành lập từ năm 1993. Hơn 20 năm, C.P. Việt Nam không ngừng mở rộng sản xuất và hoạt động trong 3 lĩnh vực chính gồm Thức ăn chăn nuôi, Trang trại, Thực phẩm. Năm 2014, C.P Vietnam đạt doanh thu 2,07 tỷ USD, trong đó riêng mảng thức ăn chăn nuôi đạt 867 triệu USD.
Năm 2013, người Thái ghi dấu ấn trong mảng dầu khí tại Việt Nam khi tập đoàn PTT công bố dự án lọc dầu trị giá từ 25-30 tỷ USD tại khu khu kinh tế Nhơn Hội, Bình Định. Đây là dự án có tầm cỡ thế giới. PTT là doanh nghiệp lớn nhất Thái Lan và lớn thứ 2 khu vực Đông Nam Á. So với quy mô của dự án trên thì Nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất khá nhỏ bé khi vốn đầu tư chỉ bằng 1/9, diện tích đất sử dụng bằng ½ và công suất bằng ¼.
Tuy nhiên hồi đầu tháng 8 mới đây, UBND tỉnh Bình Định tuyên bố rút Dự án này khỏi quy hoạch phát triển dầu khí Việt Nam đến năm 2025. Lý do là dự án này kéo dài quá lâu trong khi phía PTT đưa ra nhiều điều kiện Chính phủ Việt Nam và tỉnh Bình Định không thể đáp ứng được. Về phía PTT cho biết hoãn kế hoạch xây dựng Tổ hợp lọc hoá dầu Nhơn Hội do bối cảnh thị trường dầu thế giới còn nhiều biến động và cần thời gian xem xét thêm.
Về lĩnh vực hạ tầng, không thể không nhắc đến tập đoàn Amata. Tập đoàn đầu tư vào hạ tầng khu công nghiệp với đầy đủ dịch vụ tại Biên Hòa với dự án Amata City với tổng diện tích 700 ha. Trong năm 2016, tập đoàn này tiếp tục được cấp phép dự án Thành phố Amata Long Thành với tổng vốn đầu tư hơn 309 triệu USD với mục tiêu đầu tư xây dựng khu đô thị dịch vụ theo quy hoạch tại Đồng Nai. Đây là dự án lớn thứ 4 trong năm nay sau dự án LG Display Hải Phòng, LG Innotek Hải Phòng, Dự án phát triển tổ hợp cảng biển và khu công nghiệp tại khu vực đầm nhà Mạc tại Quảng Ninh.
Việt Nam được xem là thị trường tiềm năng với các doanh nghiệp Thái Lan khi các doanh nghiệp khác như Green Siam Marketing, TRI Global, Pharmaceutical Industry, CT Industry, NMB-Minebea Thai và Gates Unitta cho biết, họ đánh giá rất cao thị trường Việt Nam và trong tương lai, có thể sẽ mở rộng đầu tư và kinh doanh sang đây. Danh sách thành viên của Hiệp đội doanh nghiệp Thái Lan tại Việt Nam lên tới 70 công ty và có nhiều tên tuổi quen với người Việt như Red Bull, Siam Brothers, Thai Airways, Thai corp, TOA,…
Theo Kim Thủy (Cafebiz.vn/Trí Thức Trẻ)