Đổng Trọng Thư, một nhà triết học duy tâm thời Tây Hán và đại diện tiêu biểu của Nho học, trên nền tảng tư tưởng "Thiên nhân hợp nhất" đã sáng tạo ra học thuyết "Thiên nhân cảm ứng".
Ông tin rằng, "Thiên hữu tứ thời, vương hữu tứ chính" nghĩa là thời tiết có bốn mùa, vua chúa có bốn chính sách trị nước. Do đó, các sự kiện lớn thời cổ đại như "khánh" (lễ hội), "thưởng" (khen thưởng), "phạt" (kết tội), "hình" (hành hình) trong triều đình phải tương ứng với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
Nếu làm trái lại ý trời sẽ dẫn đến tai họa, chịu sự trừng phạt của trời cao và người cổ đại tin vào điều này. Do vậy, vấn đề "Thu hậu vấn trảm" (xử chém sau mùa thu) đã được đưa vào pháp chế.
Đối với người xưa, "Thu hậu vấn trảm" không chỉ thuận theo thiên thời mà còn là một con đường sống cho tử tù. Các tù nhân bị kết án tử nhiều vùng khác nhau ở Trung Quốc thường được quan lớn trong triều xem xét lại trước khi hành hình.
Nhưng vì việc di chuyển trong thời cổ đại lạc hậu, phải mất vài tháng để chuyển tin tức đến Kinh thành, nên trong quá trình này, người thân của tử tù vẫn còn cơ hội để tìm bằng chứng mới và lật ngược bản án. Chính vì thế, "Thu hậu vấn trảm" cũng ngăn chặn sự bất công ở một mức độ nhất định.
Mặc dù luật pháp thời phong kiến rất hà khắc, nhưng các tử tù vẫn được cho ăn bữa thịnh soạn trước khi hành hình. Trong mắt người thời cổ đại, bất kể đã phạm tội thế nào, sau khi bị kết án tử thì kẻ đó xem như nhận hình phạt thích đáng, cuộc sống đã bị tước bỏ.
Đối với những người sắp chết thì tính toán với họ để làm gì chứ? Cho nên, việc cho những tử tù ấy một bữa ăn cuối cùng trước khi lên đường cũng là sự quan tâm nhân văn tương đối đơn giản trong thời cổ đại. Bữa ăn đấy thường được gọi là "bữa cơm đoạn đầu".
Trong nhiều sách sử ghi chép, "bữa ăn đoạn đầu" được Sở Trang Vương (là vị vua thứ 25 của nước Sở - chư hầu nhà Chu) đề xuất đầu tiên vào thời kỳ Xuân Thu. Lúc đấy, các nước đều diễn ra loạn lạc, bên chiến thắng sẽ diệt sạch phe bại trận, kết quả là rất nhiều binh lính phe địch bị giết.
Thân là một trong ngũ bá thời Xuân Thu, Sở Trang Vương khi nhìn thấy tình cảnh này đã đề xuất bữa ăn đầy đủ trước khi giết những người đó, không để họ trở thành con ma đói. Từ đấy, "bữa cơm đoạn đầu" được phổ biến hơn, trở thành tục lệ của các triều đại về sau.
"Bữa cơm đoạn đầu" là bữa ăn cuối cùng trong cuộc đời tử tù, chính vì thế nha dịch của quan phủ đều cố gắng chuẩn bị thịnh soạn nhất có thể. Điều kiện sống ngày xưa rất khó khăn, dân thường có thể không được ăn thịt trong nửa năm nay nhưng trong các "bữa cơm đoạn đầu", tử tù đều được ăn gà và thịt, đảm bảo được ăn uống no nê.
Tuy nhiên, dù được cung cấp một bữa ăn phong phú đến thế nhưng hầu hết các tử tù đều không thể nuốt trôi. Bởi vào thời điểm này họ rất lo lắng, cảm xúc không hề ổn định.
Trong các đạo luật phong kiến cũng có nhiều quy định khác nhau về xử chém. Chẳng hạn như nhà Tống nổi tiếng đông dân lắm của, tiêu chuẩn của một "bữa cơm đoạn đầu" không dưới 5.000 văn tiền. Vào thời điểm đó, số tiền này là một khoản khổng lồ. Dù những quan chức ở các cấp đều biển thủ một ít nhưng số tiền còn lại cho "bữa cơm đoạn đầu" không hề ít.
Không chỉ vậy, trong "bữa cơm đoạn đầu", quan phủ sẽ đặt kèm một miếng thịt sống đã bốc mùi hôi. Tử tù chẳng những không nổi giận mà còn rất cảm kích khi thấy miếng thịt sống đấy.
Vào thời cổ đại, hầu hết người dân đều mê tín, họ tin vào thuyết luân hồi chuyển thế. Sau khi con người chết, họ phải bước qua cầu Nại Hà bắc qua Vong Xuyên và được xem như ranh giới cuối cùng của Địa ngục.
Bên cạnh cầu Nại Hà luôn có một con chó hung hãn. Khi những người tử tù đến đây thì phải "hối lộ" cho chúng thì mới bước qua bình an. Vì vậy, dù là miếng thịt sống bốc mùi hôi nhưng đó được xem là "ân huệ" của quan phủ khi cho tử tù chút hành trang đi đến cửu tuyền.
Đặt miếng thịt sống vào bát cơm của tử tù là hành động khinh người của người thời cổ đại nhưng nó có thể làm giảm bớt áp lực tâm lý cho kẻ sắp chết. Hơn nữa, đây cũng được xem như "lòng nhân đạo" của người xưa.
Con người thời cổ đại chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, do đó các vị Hoàng đế khi cai trị đất nước cũng chú ý ít nhiều đến sự nhân đạo. Và "bữa cơm đoạn đầu" thời cổ đại chính là biểu hiện của tư tưởng đó.
Theo Yu (Nhịp sống Việt)