Predator bắt đầu được Mỹ triển khai từ năm 1995 nhưng đến năm 2001 thì phiên bản trang bị vũ khí mới chính thức hoạt động. |
|
Theo tài liệu từ Không quân Mỹ, loại UAV này dài 8,22 m, sải cánh từ 14,8 - 16,8 m, cao 2,1 m. Về khả năng hoạt động, MQ-1 Predator đạt tốc độ tối đa 217 km/h, tầm bay 1.100 km và trần bay 7,6 km. |
|
Thông thường, loại UAV này có thể bay liên tục trong 24 giờ mà không cần tiếp thêm nhiên liệu. |
|
Phần thân khá mảnh mai với đuôi cánh phía sau có hình chữ V ngược giúp máy bay ổn định. |
|
Động cơ cánh quạt được đặt sau cùng với một bánh lái nằm phía dưới, ngay giữa phần đuôi cánh sau. Thân máy bay được làm từ hỗn hợp sợi carbon và kevlar. |
|
Bên dưới phần thân máy bay được bọc thêm các lớp nomex (vật liệu làm từ bọt gỗ ép, sử dụng trong quần áo lính cứu hỏa) nhằm cách nhiệt cho máy bay. |
|
Phần khung được làm từ sợi thủy tinh và sợi carbon, còn phần vỏ bên ngoài cùng được phủ 1 lớp nhôm. |
|
Các cánh tà và cánh liệng trên cánh chính được phủ 1 lớp titan, ngoài ra còn một hệ thống có thể phun chất ethylene glycol lên cánh may bay giúp làm tan băng khi bay qua các vùng khí hậu khắc nghiệt. |
|
Ban đầu, MQ-1 Predator chủ yếu được sử dụng trong hoạt động trinh sát, nhưng do có kích thước đủ lớn để chở tên lửa. Sau này, nhà sản xuất tăng cường băng thông và tốc độ liên lạc khiến máy bay có thêm chức năng tấn công. |
MQ-1 Predator có thể mang theo 2 tên lửa đối đất AGM-114 Hellfire (tầm bắn 8 km), hay 4 tên lửa đối không AIM-92 Stinger (tầm bắn 4,5 km), hoặc 6 tên lửa đối đất AGM-175 Griffin dẫn đường bằng laser hoặc vệ tinh (tầm bắn 20 km). |