Vào sáng 10-3, cô còn bị một nhóm thiếu niên chế nhạo và ho về phía mình. "Tôi cảm thấy bị xúc phạm và bị hiểu lầm" - nữ sinh viên kiêm trợ lý nghiên cứu kể. Cô Man còn nhận thấy sự kỳ thị ở văn phòng khi đeo khẩu trang. Không đồng nghiệp nào của cô làm điều này và một số người còn hỏi cô rằng cô có bị ốm không.
"Tại sao họ lại nghĩ rằng tôi đeo khẩu trang là vì bản thân mình nhỉ? Đây là nghĩa vụ với cộng đồng. Nếu lỡ tôi bị nhiễm virus thì việc đeo khẩu trang có thế cứu được rất nhiều người" - cô Man chia sẻ.
Đây là lời khuyên của các chuyên gia sức khỏe ở Hồng Kông, nơi cô Man sinh ra và lớn lên, và cô tin điều này. Gần như tất cả cư dân ở Hồng Kông đều đeo khẩu trang từ khi có thông tin về loại virus bí hiểm đang lây lan ở TP Vũ Hán - Trung Quốc. Chính quyền Hồng Kông và các chuyên gia sức khỏe hàng đầu ở đây còn khuyến khích đeo khẩu trang để hạn chế virus SARS-CoV-2 lan rộng.
Khi nỗi lo sợ về dịch Covid-19 tăng cao, người dân Hồng Kông đã xếp hàng qua đêm để mua khẩu trang. Trong khi đó, Hàn Quốc, Singapore và Nhật Bản còn phát khẩu trang cho người dân. Thậm chí Đài Loan và Thái Lan phải cấm xuất khẩu khẩu trang để đáp ứng nhu cầu tăng vọt trong nước.
Thế nhưng, việc đeo khẩu trang khi hoàn toàn khỏe mạnh lại không được khuyến khích, thậm chí trở thành hành động không được xã hội chấp nhận ở Mỹ. Chính phủ Mỹ còn thông báo chỉ những người đang bệnh, hoặc nhân viên y tế, mới nên đeo khẩu trang theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Ông Jerome Adams, Tổng y sĩ Mỹ, từng khuyến cáo trên Twitter: "Mọi người, ngừng mua khẩu trang đi! Nó không hiệu quả trong việc phòng ngừa cộng đồng nhiễm virus nhưng nếu các nhân viên y tế không có khẩu trang để chăm sóc người bệnh, họ và chúng ta sẽ gặp nguy hiểm".
Tuy nhiên, ông David Hui, một chuyên gia về hô hấp tại trường ĐH Hồng Kông, người đã nghiên cứu về Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) năm 2003, nói việc đeo khẩu trang sẽ giúp chống lại các bệnh truyền nhiễm như Covid-19. "Khẩu trang giống như một rào cản ngăn các giọt bắn vốn là cách lây lan chủ yếu của virus" - trích lời ông Hui.
Ngoài ra, vai trò của khẩu trang có thể đặc biệt quan trọng trong dịch bệnh lần này vì tính chất của virus SAS-CoV-2. Các bệnh nhân nhiễm Covid-19 thường có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng. Một số nhà nghiên cứu tin rằng virus có thể lây lan khi bệnh nhân còn đang ủ bệnh.
Ông Hui bổ sung rằng việc thiếu các bằng chứng vững chắc về sự hiệu quả của khẩu trang trong việc chống virus không phải là lý do để không sử dụng chúng vì có thể sẽ không bao giờ có bằng chứng khoa học cụ thể.
Việc tiến hành nghiên cứu là điều bất khả thi về mặt đạo đức. "Chúng ta không thể chia ngẫu nhiên 2 nhóm người đeo khẩu trang và không đeo rồi cho họ tiếp xúc với virus được" - ông giải thích. Ngoài ra, việc đeo khẩu trang không chỉ bảo vệ người đeo khỏi bị lây nhiễm mà còn giảm thiểu khả năng lây bệnh cho người khác.
Nhưng ngay cả trước khi dịch Covid-19 bùng phát, đeo khẩu trang đã là một hành động phổ biến ở Đông Á. Người bệnh thường hay che mặt khi ra đường để bảo vệ những người xung quanh họ. Những người khác thì đeo khẩu trang trong các mùa lạnh hoặc mùa cúm để tự bảo vệ bản thân.
Trả lời phỏng vấn tạp chí TIME, ông Ria Sinha, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Nhân văn và Y học thuộc trường ĐH Hồng Kông, cho biết: "Sự khác biệt về nhận thức trong việc đeo khẩu trang bắt nguồn một phần từ các chuẩn mực văn hóa trong việc che mặt. Trong các tương tác xã hội ở phương Tây, bạn cần phải thể hiện danh tính và giao tiếp bằng mắt. Các biểu cảm trên khuôn mặt là rất quan trọng".
Theo Bảo Hạnh (Nld.com.vn)