Ái Tân Giác La Nỗ Nhĩ Cáp Xích hay Thiên Mệnh (1559 - 1626) là hậu duệ của người Nữ Chân. Ông là người đã xây dựng nền móng cho nhà Thanh và lập ra chế độ Bát Kỳ. Sau khi ông qua đời, hậu duệ truy tôn miếu hiệu là Thanh Thái Tổ. Hình ảnh phục dựng bằng AI cho thấy hoàng đế nhà Thanh này có gương mặt phúc hậu, thông thái.
Ái Tân Giác La Hoàng Thái Cực hay Sùng Đức (1592 - 1643) là người đã đổi tên nước từ Đại Kim thành Đại Thanh. Ông chính thức thành lập nhà Thanh và trị đất nước trong 17 năm. Vị vua này được hậu duệ truy tôn miếu hiệu là Thanh Thái Tông. Khi xem ảnh phục dựng bằng AI, công chúng nhận thấy ông có diện mạo uy nghiêm, toát lên khí chất vương giả.
Ái Tân Giác La Phúc Lâm hay còn gọi hoàng đế Thuận Trị. Là vị vua thứ ba của nhà Thanh, ông lên ngôi khi 6 tuổi nhưng chỉ tại vị 18 năm. Vua Thuận Trị băng hà vì căn bệnh đậu mùa. Về sau, ông được hậu duệ truy tôn làm Thanh Thế Tổ.
Ái Tân Giác La Huyền Diệp hay còn gọi hoàng đế Khang Hy. Ông có thời gian trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc (61 năm). Sau khi băng hà năm 1722, ông được an táng tại Cảnh Lăng. Miếu hiệu của ông là Thanh Thánh Tổ.
Ái Tân Giác La Dận Chân hay còn gọi hoàng đế Ung Chính. Ông là con trai thứ 4 của vua Khang Hy. Trong thời gian trị vì, ông đã thực hiện nhiều cải cách lớn, đặc biệt chấn chỉnh vấn nạn tham nhũng trong triều đình... Sau khi vua Ung Chính băng hà năm 1735, hậu duệ truy tôn miếu hiệu là Thanh Thế Tông.
Ái Tân Giác La Hoằng Lịch hay còn gọi hoàng đế Càn Long. Ông là hoàng đế sống thọ nhất lịch sử Trung Quốc (88 tuổi). Ông băng hà năm 1799 và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Cao Tông.
Ái Tân Giác La Ngung Diễm (Vĩnh Diễm) hay còn gọi vua Gia Khánh. Mặc dù là con trai của hoàng đế Càn Long nhưng vua Gia Khánh không giỏi trị quốc giống vua cha. Tình hình nhà Thanh dần đi xuống. Vào năm 1820, Gia Khánh Đế băng hà và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Nhân Tông.
Ái Tân Giác La Miên Ninh hay còn gọi vua Đạo Quang. Dù nỗ lực chấn chỉnh tiêu cực trong triều đình nhưng những biện pháp mà ông hoàng này triển khai không đạt được hiệu quả cao. Vào năm 1850, ông băng hà và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Tuyên Tông.
Ái Tân Giác La Dịch Trữ hay còn gọi vua Hàm Phong nắm quyền trong bối cảnh nhà Thanh xảy ra nhiều biến cố lớn, bao gồm cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc. Thêm nữa, dưới sự kiểm soát của Từ Hi Thái Hậu, nhiều cải cách của ông hoàng này không thể thực hiện. Hoàng đế Hàm Phong băng hà năm 31 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Văn Tông.
Ái Tân Giác La Tải Thuần hay còn gọi vua Đồng Trị lên ngôi khi 5 tuổi. Trong 14 năm cầm quyền, ông hoàng này chỉ là vị vua "bù nhìn" bởi mọi quyền lực trong triều đều nằm trong tay Từ Hi Thái Hậu. Ông băng hà khi 19 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Mục Tông.
Ái Tân Giác La Tải Điềm hay còn gọi hoàng đế Quang Tự. Lên ngôi khi 4 tuổi, Quang Tự có số phận giống Đồng Trị khi triều đình vẫn chịu sự kiểm soát của Từ Hi Thái hậu. Năm 1908, hoàng đế Quang Tự Đế băng hà, hưởng thọ 38 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Đức Tông.
Ái Tân Giác La Phổ Nghi hay còn gọi vua Phổ Nghi (1906 - 1967) là hoàng đế thứ 12 và cũng là cuối cùng của nhà Thanh. Năm 2 tuổi, ông được Từ Hi Thái hậu và các đại thần lựa chọn, đưa vào cung để kế thừa ngai báu do hoàng đế Quang Tự không có con trai nối dõi. Ngày 12/2/1912, vua Phổ Nghi thoái vị sau cuộc Cách mạng Tân Hợi. Theo đó, nhà Thanh sụp đổ, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài hàng trăm năm.
Theo Tâm Anh (Kienthuc.net.vn)