Người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Đồng thời, người đó phải hoàn trả một khoản tiền nhất định nhưng không quá 36 tháng lương.
Nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng, theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước thì ông Tấn hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường vì lý do bị khởi tố và truy tố oan. Ngoài những thiệt hại về tổn thất tinh thần thì ông Tấn còn có quyền yêu cầu bồi thường về những thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút, thiệt hại về vật chất do tổn hại về sức khỏe…
Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại phải hoàn trả một phần tiền nhà nước đã bồi thường cho người bị hại (ảnh Dân Việt).
Dĩ nhiên, ai cũng biết số tiền bồi thường cho người bị oan sai sẽ được lấy từ ngân sách Nhà nước và cơ quan nào trực tiếp gây ra những sai phạm đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Vấn đề mà dư luận cũng đang hết sức quan tâm là những cá nhân đã gây ra vụ án truy tố chủ quán Xin Chào đầy tai tiếng này có phải chịu trách nhiệm bồi thường gì không?
PV đã có cuộc trao đổi với thạc sĩ luật Nguyễn Thị Hằng (Công ty luật TNHH Tôi Yêu Luật, Hà Nội):
PV: Thưa bà, trường hợp cơ quan nhà nước phải bồi thường do người thi hành công vụ gây ra thì bản thân người đó sẽ phải chịu những trách nhiệm gì với tư cách là cá nhân?
Đương nhiên là có rồi. Ngoài việc bị xem xét kỷ luật, thậm chí phải chịu trách nhiệm hình sự nếu cố ý làm trái, cố ý ban hành quyết định trái pháp luật thì người thi hành công vụ còn phải có trách nhiệm trả bằng tiền cho những sai phạm do chính mình gây ra nếu cơ quan nhà nước đứng ra bồi thường.
Tuy nhiên, theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước và các văn bản hướng dẫn thì khoản tiền này được gọi là tiền hoàn trả bồi thường. Tức là người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật không trực tiếp bồi thường cho người bị thiệt hại mà sau khi cơ quan bồi thường thì sẽ phải hoàn trả một phần cho cơ quan.
PV: Thưa bà, số tiền mà nhà nước quy định cho người thi hành công vụ phải hoàn trả bồi thường cụ thể là bao nhiêu?
Tại Điều 16, Nghị định 16/2010/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã nêu rõ mức hoàn trả bồi thường như sau:
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 36 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự do việc thực hiện hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại đó thì phải hoàn trả toàn bộ số tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự.
Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường căn cứ vào mức độ thiệt hại gây ra, điều kiện kinh tế của người đó để quyết định họ phải hoàn trả một khoản tiền nhất định, nhưng tối đa không quá 03 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Theo Nhất Phiến (Nguoiduatin.vn)