VKSNDTC vừa ra cáo trạng truy tố 14 bị can trong vụ án "Vi phạm quy định về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng; Đưa và nhận hối lộ" xảy ra tại Tổng công ty MobiFone và một số đơn vị liên quan.
Theo đó, VKSNDTC truy tố 14 bị can liên quan đến vụ án về các tội danh nêu trên, trong đó 2 bị can Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, đều nguyên là Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT-TT), bị đề nghị truy tố về 2 tội danh: "Vi phạm quy định về quản lý đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng" và "Nhận hối lộ". Riêng bị can Phạm Nhật Vũ, cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu (AVG), bị truy tố về tội "Đưa hối lộ".
Bị can Phạm Nhật Vũ khai nhận sau 5 buổi đàm phán, đến ngày 2-10-2015, Phạm Nhật Vũ đại diện AVG cùng đại diện MobiFone dưới sự chủ trì của Bộ TT-TT đã họp, thống nhất, mức giá mua 95% cổ phần là hơn 8.898 tỉ đồng. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, đến 15-1-2016, MobiFone đã thanh toán 95% giá trị hợp đồng tương đương hơn 8.445 tỉ đồng cho 8 cổ đông của AVG.
Sau khi bán 95% cổ phần AVG cho MobiFone theo đúng mong muốn và có lợi nên Phạm Nhật Vũ đã đưa cho Nguyễn Bắc Son 3 triệu USD, Trương Minh Tuấn 200.000 USD; Lê Nam Trà 2,5 triệu USD và Cao Duy Hải 500.000 USD. Lý do Phạm Nhật Vũ đưa tiền cho 4 cá nhân trên vì họ có vai trò quyết định đối với việc AVG bán cổ phần cho MobiFone và số tiền Phạm Nhật Vũ đưa cho từng người phụ thuộc vào vị trí chức vụ và tính quyết định của từng cá nhân trong quá trình thực hiện việc trong thương vụ này.
Theo cáo trạng của VKSNDTC, đối với bị can Phạm Nhật Vũ, mặc dù không phải chịu trách nhiệm chính về các hậu quả thiệt hại của MobiFone do hành vi phạm tội vi phạm về đầu tư công của Nguyễn Bắc Son và đồng phạm gây ra, tuy nhiên, trước khi khởi tố vụ án, Phạm Nhật Vũ đã chủ động, tích cực khắc phục toàn bộ số tiền thiệt hại cho MobiFone gồm: hơn 8.445 tỉ đồng tiền chuyển nhượng cổ phần và hơn 329 tỉ đồng là số tiền lãi phát sinh chi phí liên quan đến dự án.
Bên cạnh đó, Phạm Nhật Vũ đã tích cực phối hợp cung cấp tài liệu để Cơ quan điều tra làm rõ hành vi của các bị can vi phạm về đầu tư công, cũng như hậu quả của vụ án. Do đó, không xử lý trách nhiệm của Phạm Nhật Vũ về hành vi này.
Trong quá trình điều tra vụ án đưa và nhận hối lộ, Phạm Nhật Vũ đã có đơn tự nguyện khai báo và đầu thú về hành vi phạm tội, nhận thức rõ và ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội; tích cực khai báo và hợp tác với Cơ quan điều tra, VKSND Tối cao để làm rõ hành vi phạm tội của các bị can nhận hối lộ, giúp cho cơ quan tố tụng sớm kết thúc điều tra vụ án.
Ngoài ra, bị can Phạm Nhật Vũ có nhiều hoạt động từ thiện và đóng góp cho hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có đơn ghi nhận Phạm Nhật Vũ đã có nhiều đóng góp cho an sinh xã hội, trùng tu di tích lịch sử văn hóa... và lĩnh vực giao lưu mở rộng quan hệ Quốc tế của Giáo hội; Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam TP Hà Nội, tỉnh Hà Giang, tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Hưng Yên, tỉnh Cao Bằng có đơn đề nghị xem xét cho Phạm Nhật Vũ được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật.
Với nhiều tình tiết giảm nhẹ, VKS xác định cần áp dụng đầy đủ, triệt để các quy định tại Điều 3, khoản 1, điểm d - Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về nguyên tắc xử lý “khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”. Đồng thời, cần áp dụng Điều 51, khoản 1, 2 (về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) và các quy định khác của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét quyết định mức hình phạt tương xứng với những tình tiết giảm nhẹ nêu trên của bị can Phạm Nhật Vũ.
Đề cập về chính sách khoan hồng đối với bị can Phạm Nhật Vũ, luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng VPLS Chính Pháp (Đoàn LSTP Hà Nội) cho biết, về nguyên tắc chung của pháp luật thì một người được xác định là có tội thì sẽ phải chịu hình phạt theo quy định của bộ luật hình sự. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Theo luật sư Cường, trong chính sách xét xử hình sự của Việt Nam thì luôn kết hợp hài hòa hai yếu tố là tính khoan hồng và nghiêm trị. Khoan hồng với người biết ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu, lỗi vô ý, có nhân thân tốt. Còn nghiêm trị đối với những đối tượng chủ mưu cầm đầu, thực hành tích cực, ngoan cố chống đối...
“Đây là nguyên tắc chung áp dụng với tất cả các bị can, bị cáo chứ không phải áp dụng riêng đối với ai. Đây là một nội dung quan trọng trong chính sách xét xử hình sự, làm cơ sở để xác định loại và mức hình phạt khi lượng hình”, ông Cường nhấn mạnh.
Luật sư Cường cho biết thêm, để quyết định loại hình phạt và mức hình phạt thì trước tiên Tòa án phải căn cứ vào các quy định của bộ luật hình sự, xem xét đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Khi giải quyết vụ án thì đối với mọi vụ án hội đồng xét xử đều phải đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điều 51 và điều 52 Bộ luật hình sự chứ không riêng gì với ông Nguyễn Nhật Vũ và các bị cáo trong vụ án này.
“Có những vụ án, người thực hiện hành vi phạm tội là phạm tội lần đầu, có rất nhiều các tình tiết giảm nhẹ nhưng tính chất vụ án đặc biệt nghiêm trọng, gây hậu quả xấu cho xã hội thì hình phạt vẫn hết sức nghiêm khắc. Nói cách khác, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự chỉ tác động phần nào đến mức hình phạt chứ không phải là yếu tố quyết định”, luật sư Cường bày tỏ quan điểm.
Theo Như Loan (Công Lý)