Ngày 3/12, TAND Cấp cao tại TPHCM đã tuyên án vụ Vạn Thịnh Phát giai đoạn 1. Ngoài mức án đã tuyên với các bị cáo, tòa cũng có phán quyết cuối cùng đối với phần dân sự.
Liên quan đến phần kháng cáo của Tập đoàn Tuần Châu của ông Đào Hồng Tuyển, HĐXX cho biết, giữa bị cáo Trương Mỹ Lan và tập đoàn này có hợp tác thông qua các hợp đồng chuyển nhượng mua bán cổ phần và dự án.
Theo đó, ông Đào Anh Tuấn (con trai ông Tuyển) và Công ty Âu Lạc, Công ty T&H Hạ Long (thuộc tập đoàn Tuần Châu) nhận được từ phía bà Trương Mỹ Lan tổng cộng 6.095 tỷ đồng.
Trong đó, ở khoản tiền thứ nhất là 3.179 tỷ đồng, ông Tuấn nhận được là do chuyển nhượng 70,59% cổ phần của Công ty T&H Hạ Long cho bà Lan. Tuy nhiên, phía bà Lan chỉ chuyển 1.411 tỷ đồng, còn lại 1.768 tỷ đồng các bên đang bàn bạc để đối trừ vào các khoản phía bà Lan có nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận khung.
Khoản tiền thứ hai là 2.916 tỷ đồng. Số tiền này Công ty Âu Lạc, Công ty T&H Hạ Long nhận được từ 5 công ty của bà Lan theo 5 thỏa thuận khung hợp tác và chuyển giao tài sản là 243 căn nhà liền kề (thuộc dự án Khu biệt thự Morning Star và khu biệt thự Hoàng Long), tương ứng với 9 sổ đất đã thế chấp để đảm bảo khoản vay của các công ty nhận chuyển giao tài sản trên tại SCB.
Hiện, 2 công ty này đã sử dụng 32 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo dư nợ cho các khoản vay tại ngân hàng SCB.
Theo HĐXX, Bản án sơ thẩm buộc Công ty T&H Hạ Long và Công ty Âu Lạc nộp lại số tiền 6.095 tỷ đồng đã nhận từ bị cáo Lan để thực hiện nghĩa vụ bồi hoàn cho bị cáo này trong toàn bộ vụ án là có căn cứ.
Việc Ngân hàng SCB yêu cầu 2 công ty này nộp lại 6.095 tỷ đồng để khắc phục hậu quả của SCB, HĐXX xét xử cho rằng không có căn cứ. Bởi, số tiền này không có cơ sở để xác định xuất phát từ các khoản vay không đúng quy định, bất hợp pháp tại SCB. Mặt khác, nghĩa vụ bồi hoàn đối với toàn bộ thiệt hại đã được xác định là thuộc trách nhiệm của bị cáo Lan và thứ tự bồi thường, khắc phục sẽ được giải quyết trong giai đoạn thi hành án nên quyền lợi của SCB vẫn được đảm bảo.
Đối với yêu cầu của Công ty T&H Hạ Long, Công ty Âu Lạc đề nghị tách biệt nghĩa vụ hoàn trả của từng công ty, HĐXX xét thấy 2 công ty đã nhận số tiền 6.095 tỷ đồng từ bị cáo Lan theo các thoả thuận khung.
Để đảm bảo việc thu hồi triệt để số tiền này để khắc phục hậu quả của vụ án, HĐXX không chấp nhận kháng cáo, buộc 2 công ty thực hiện nghĩa vụ hoàn trả toàn bộ số tiền cho bị cáo Lan.
Đối với yêu cầu của 2 công ty này về việc sau khi thực hiện xong nhiệm vụ nộp tiền thì loại 8/23 mã tài sản thuộc danh mục 1.120 mã tài sản giao cho SCB, đồng thời giải toả kê biên đối với các tài sản của 2 công ty; HĐXX xét thấy 2 công ty có nghĩa vụ liên quan đến phần trách nhiệm dân sự trong vụ án nên cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã kê biên tài sản thuộc sở hữu của 2 công ty để đảm bảo cho việc thu hồi tiền là đúng quy định của pháp luật.
Việc Công ty Âu Lạc và Công ty T&H Hạ Long đề nghị giải tỏa kê biên sau khi hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền là thuộc phạm vi giải quyết trong giai đoạn thi hành án. Do đó, HĐXX không giải quyết nội dung này.
Đối với yêu cầu hủy bỏ thỏa thuận không hợp tác giữa hai bên, HĐXX xét thấy, sau khi Công ty Âu Lạc và Công ty T&H Hạ Long nộp lại số tiền hơn 6.095 tỷ đồng để đảm bảo nghĩa vụ bồi hoàn của bị cáo Lan thì thỏa thuận khung được huỷ bỏ.
Theo Thanh Phương (VietNamNet)