Thông tin đáng chú ý này được ông Nguyễn Trung Hiếu, Trưởng tiểu ban Chính sách Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), chia sẻ tại tọa đàm “Chính sách thuế và vai trò Hải quan thúc đẩy công nghiệp ô tô Việt Nam” do báo Hải quan phối hợp với VAMA tổ chức ngày 3/11.
Theo ông Hiếu, dù phát triển muộn hơn so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Malaysia khoảng 30 năm, song với những nỗ lực của Chính phủ và các doanh nghiệp (DN), hai năm trở lại đây, ngành công nghiệp (CN) ô tô Việt Nam có sự phát triển nhanh.
Sản lượng xe sản xuất lắp ráp trong nước tăng lên nhanh chóng. Đặc biệt, 2 năm qua, thị trường ô tô Việt ghi nhận kết quả tăng trưởng nhanh, nổi lên mạnh mẽ của 3 DN gồm TC Motor, Trường Hải (Thaco) và VinFast.
Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, dù phát triển nhanh về số lượng song ngành sản xuất lắp ráp ô tô trong nước vẫn chưa đạt được tiêu chí của ngành sản xuất ô tô thực sự. “Chưa tạo được sự hợp tác, liên kết và chuyên môn hóa giữa các DN trong sản xuất, lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện.
Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn. Tỷ lệ nội địa hóa xe cá nhân thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra”, ông Lương Đức Toàn, Phó Trưởng phòng Công nghiệp Chế biến Chế tạo, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) chia sẻ.
Theo ông Toàn, hiện nay chỉ có một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt Nam.Việt Nam hiện phải nhập khẩu (NK) hầu hết nhóm sản phẩm hỗ trợ có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, nhất là các bộ phận linh kiện quan trọng (80% linh kiện phải NK).
Thực tế, Việt Nam mới chỉ nội địa hóa được các linh kiện cồng kềnh như ghế ngồi, bộ dây điện.
“Chẳng hạn nắp bình xăng, báo giá của nhà cung cấp trong nước bán ra thị trường gần 4 đô-la Mỹ, cao hơn gấp đôi so với NK sẵn từ Thái lan. Chênh lệch chi phí 200-300% cũng áp dụng cho những linh kiện nhựa hoặc dập cỡ trung bình khác. Và khoảng chênh lệch thậm chí còn lớn hơn đối với các linh kiện ở các lớp cao hơn”, ông Hiếu dẫn chứng.
Chi phí NK linh kiện đắt đỏ dẫn đến chi phí sản xuất lắp ráp xe trong nước (CKD) cao hơn so với xe NK nguyên chiếc (CBU) từ ASEAN 10-20%. “Đáng chú ý hơn, chi phí NK xe CBU chỉ chiếm khoảng 5% so với tổng giá thành xe, trong khi đối với linh kiện, tỷ lệ này có thể tăng lên tới 20-30%”, đại diện VAMA cho hay.
Sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước năm 2018 đạt 258.116 xe, tăng lên 330.000 xe năm 2019; 9 tháng đầu năm 2020 dù ảnh hưởng COVID-19 nhưng sản lượng ô tô vẫn đạt trên 160.000 chiếc.
Theo Tuấn Nguyễn (Tiền Phong)