Năm 1990 – Hệ thống chỉ đường bằng vệ tinh
Vào thời xưa, con người chỉ có thể sử dụng bản đồ bằng giấy để tìm đường đi, ngay cả khi đi xe ô tô, điều này đã gây ra không ít khó khăn cho người dùng. Chính vì vậy, vào năm 1990, hãng xe Mazda đã gây được tiếng vang lớn khi lần đầu giới thiệu hệ thống dẫn đường GPS được trang bị trên các dòng xe thương mại tại thị trường Nhật Bản.
Tiếp sau đó, hệ thống này dần có mặt tại Mỹ. Tuy nhiên hệ thống định vị GPS lúc bấy giờ được xem là tính năng tùy chọn và có giá lên tới 1.95 USD. Mãi đến năm 2000, hệ thống này mới bắt đầu phổ biến và là một công nghệ không thể thiếu như hiện nay.
Năm 1966 – Ô tô được kết nối
Thuật ngữ “Connected car” (ô tô được kết nối) đã trở thành một cụm từ thông dụng trong thế kỉ 21. Tuy nhiên ít ai biết được rằng chính hãng xe GM đã hợp tác với Motorola để tạo ra hệ thống kết nối đầu tiên cho một chiếc ô tô với tên gọi là Onstar. Các hệ thống kết nối Onstar ban đầu được sử dụng để gọi các dịch vụ khẩn cấp khi túi khí bung ra và lần đầu tiên được trang bị trên các dòng Cadillac Eldorado, DeVille và Seville. Theo thời gian, hệ thống này được bổ sung thêm các tính năng mới như định vị GPS, khả năng truyền giọng nói và dữ liệu,…
Năm 1998 – Màn hình hiển thị HUD màu
Màn hình hiển thị trên kính lái (HUD) trên xe hơi vẫn còn được coi là câu chuyện khoa học viễn tưởng trong những năm 1980. Tuy nhiên chỉ sau gần 20 năm, HUD lần đầu xuất hiện trên mẫu xe đua Oldsmobile Cutlass tham dự giải Indy Pace Cars. Giờ đây, nó đã trở thành một tùy chọn phổ biến trên nhiều dòng ô tô của các nhà sản xuất ô tô trên toàn cầu. Mẫu xe thương mại đầu tiên được trang bị màn hình HUD màu là Chevrolet Corvette 1998. Tiếp đến, Cadillac cũng bắt đầu cung cấp HUD trên dòng xe XLR, trong khi BMW lại trang bị trên mẫu 5-Series đời 2003.
Năm 1999 - Hệ thống kiểm soát hành trình thích ứng (ACC) bằng Laser
Mặc dù hãng Mercedes có trong tay một danh sách dài các công nghệ tiên phong trên thị trường nhưng hãng xe Mitsubishi lại mới là hãng xe đầu tiên phát triển tính năng kiểm soát hành trình thích ứng bằng laser cùng hệ thống kiểm soát hành trình. ACC sử dụng hệ thống điều khiển bướm ga cùng kiểm soát hộp số để điều chỉnh tốc độ của xe, thay vì dùng phanh xe như trước.
Năm 2000/2001 – Bluetooth
Ở thời điểm hiện tại, Bluetooth đã trở nên vô cùng phổ biến và hiếm có chiếc xe nào không được trang bị công nghệ này. Tuy nhiên, vào những năm 1990, Bluetooth là một thứ gì đó xa xỉ và khó có thể áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù hiện vẫn chưa rõ hãng xe nào đã nảy ra ý tưởng trang bị Bluetooth trên xe ô tô đầu tiên, nhưng Honda đã trở thành người đi đầu trong việc tích hợp công nghệ kết nối trong phạm vi gần này trên dòng Acura TL tại thị trường Mỹ.
Năm 2002 – Camera lùi
Chiếc xe đầu tiên được trang bị camera lùi chính là mẫu concept Buick Centurion 1965. Vào năm 1972, hãng xe Volvo cũng đã thực hiện ý tưởng trang bị camera lùi trên mẫu xe thử nghiệm của mình, tuy nhiên mẫu xe thương mại đầu tiên có camera lùi lại là Toyota Soarer Limited 1991 tại Nhật Bản. Kể từ năm 2018, camera lùi trở thành trang bị tiêu chuẩn trên tất cả các dòng ô tô mới tại một số nước. Trong khi đó camera 360 độ được phát triển từ năm 2008.
Năm 2004 – Khởi động xe từ xa
Công nghệ khởi động xe từ xa đã có từ trước năm 2004, tuy nhiên chỉ được trang bị trên các mẫu xe độ. Mãi đến năm 2004, hãng xe GM đã quyết định tích hợp công nghệ này trên các dòng xe thương mại. Trước khi khởi động, xe sẽ tự động chạy chương trình kiểm tra áp suất dầu, nhiệt độ của động cơ, vị trí van xả, cần số, phanh cùng điện áp của ắc quy. Chiếc xe sẽ khởi động từ xa thông qua chìa khóa nếu mọi thứ đều bình thường và nắp capô không mở.
Công nghệ khởi động xe từ xa vô cùng hữu ích tại những vùng có khí hậu nóng ẩm hoặc lạnh giá. Thông qua tính năng này, tài xế có thể khởi động xe trước khi rời khỏi nhà để khi ngồi vào ghế lái, nhiệt độ bên trong đã đủ mát/ấm.
Năm 2006 – Hệ thống tự đỗ xe
Lexus đã giới thiệu chiếc xe có tính năng tự đỗ đầu tiên trên thế giới – chiếc sedan LS 460 đời 2006 tại triển lãm ô tô quốc tế Detroit. Để kích hoạt tính năng này, người lái phải chuyển cần số về số lùi, kích hoạt camera lùi trước khi nhấn biểu tượng đỗ xe song song trên màn hình cảm ứng khi thấy vị trí họ muốn đỗ. Người lái sau đó có thể bỏ tay ra khỏi vô lăng để xe tự lùi và đánh lái vào chỗ đó. Các nhà sản xuất ô tô khác đã nhanh chóng học theo ý tưởng này và ngày càng hoàn thiện nó hơn.
Năm 2007 – Công nghệ giám sát điểm mù
Volvo đã phát triển hệ thống thông tin điểm mù và đưa vào trang bị trên mẫu S80 mui kín được sản xuất năm 2007. Đây là hệ thống cảnh báo tài xế khi họ thay đổi làn đường mà có phương tiện khác đang di chuyển bên cạnh. Mazda sau đó đã sử dụng một hệ thống tương tự trên chiếc Mazda CX-9 năm 2008 của mình, nhưng chỉ có trên bản Grand Touring. Đến năm 2013, hãng đã triển khai công nghệ này trên nhiều dòng xe và tiếp đến là những hãng xe khác.
Năm 2009 – Ô tô kết nối điện thoại thông minh
Vào năm 2009, Mercedes đã lần đầu giới thiệu ứng dụng “Mbrace” cho phép tài xế tương tác với xe của mình thông qua smartphone. Ứng dụng này hoạt động trên các điện thoại iPhone và Blackberry, cho phép chủ xe mở và khóa xe từ xa, đồng thời dễ dàng xác định được vị trí của xe. Kể từ đó, nhiều ứng dụng tương tự được ra đời và nâng cấp với nhiều tính năng hơn như phân tích tình trạng xe, kiểm tra mức nhiên liệu, khởi động từ xa, thậm chí đặt lịch các cuộc hẹn dịch vụ.
Năm 2012 – Giấy phép đầu tiên dành cho xe tự lái
Trên thực tế, cuộc chạy đua phát triển các dòng xe tự lái đã có từ năm 2010 và Google là công ty đầu tiên được cấp phép thử nghiệm công nghệ xe không người lái. Sau đó, chiếc Toyota Prius được chạy thử nghiệm tại bang Nevada (Mỹ), mở đường cho công cuộc chạy thử xe tự lái. Bên cạnh đó, những công nghệ có liên quan như giữ làn đường, tránh va chạm, kiểm soát hành trình thích ứng nâng cao được nghiên cứu, phát triển và cải tiến từng ngày.
Năm 2014 – Apple Carplay
Ứng dụng Carplay của Apple đã xuất hiện trên thị trường vào năm 2014, theo sát sau đó là Android Auto. Cả hai ứng dụng này đều đi đầu với các tính năng như công nghệ dẫn đường và điều khiển bẳng giọng nói. Hệ thống này còn được kết nối với các ứng dụng âm nhạc và du lịch phổ biến, giúp tích hợp cuộc sống hàng ngày với chiếc xe. Ngoài ra người dùng còn có thể dễ dàng nâng cấp thông qua điện thoại thông minh.
Năm 2018 – Lấy điện thoại làm chìa khóa
Việc mở cửa ô tô không cần chìa khóa đã có từ rất lâu. Vào năm 1980, Ford đã giới thiệu hệ thống mã khóa Securi Code (hay có tên gọi khác là Keyless Entry System) được bố trí trên cánh cửa phía người lái giúp tài xế có thể mở cửa mà không cần đến chìa khóa. Tuy nhiên mãi đến năm 2018, hãng xe Tesla đã lần đầu tiên giới thiệu giải pháp sử dụng smartphone thay thế chìa khóa ô tô. Được biết chiếc Model 3 có thể được mở cửa bằng điện thoại từ khoảng cách lên tới 9m.
Theo Mai Lý (VietNamNet)