Báo cáo với tiêu đề "Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020" cho hay nợ công cần tính thêm 3 khoản, trước hết là nợ phải trả của ngân sách trung ương và địa phương chưa được bố trí nguồn thanh toán (khoảng 165.000 tỷ đồng).
Bên cạnh đó là nợ của Ngân hàng Phát triển và Ngân hàng Chính sách xã hội ngoài khoản phát hành trái phiếu được bảo lãnh (khoảng 41.400 tỷ đồng) và khoảng 49.500 tỷ đồng Chính phủ sẽ phải chi để xử lý các khoản nợ ngầm định. Các khoản này bao gồm nợ tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, tái cơ cấu các ngân hàng, nợ bất thường để xử lý chi phí phát sinh đột xuất về an ninh, quốc phòng, y tế dự phòng, thiên tai, dịch bệnh...
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ công trên tổng thu ngân sách của Việt Nam ngày càng tăng và ở mức cao so với Malaysia, Thái Lan, Philippines. Ảnh: Bá Đô |
So sánh với các số liệu về thu nhập bình quân, dân số, năng suất lao động, nhóm nghiên cứu nhận xét "Việt Nam nguy cơ trở thành quốc gia chưa giàu, đã già lại nợ nần nhiều". Cụ thể, cuối năm 2013, thu nhập bình quân người Việt là 1.910 USD, nợ công là 61,28% GDP, trong khi các nước trong khu vực có mức nợ công thấp nhưng thu nhập bình quân cao hơn nhiều. Ví dụ, con số này ở Philippines lần lượt là 2.765 USD và 50,2%, Indonesia là 3.645 USD và 24,4%, Thái Lan là 5.779 USD và 49,9%.
Trong nhóm nước thu nhập trung bình thấp (3.000 - 5.000 USD), Việt Nam cũng là quốc gia có tỷ lệ dân số già cao nhất, khoảng 7% dân số trên 65 tuổi, trong khi Lào và Philippines chỉ là 4%, Indonesia và Ấn Độ khoảng 5%.
Tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ công trên tổng thu ngân sách Nhà nước đang ở mức rất cao và có xu hướng ngày càng tăng. Năm 2013, tỷ lệ này là 33,39% (bao gồm cho vay lại), ước năm 2014 và 2015 lần lượt là 38,7% và 45,02%. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, như Malaysia là 8,8%, Philippines 16,7%; Thái Lan 2,1%. Ở Nhật Bản, con số này là 24,7% dù nợ công lên tới 226%. GDP
Trước vấn đề này, ông Đào Văn Hùng - Giám đốc Học viện Chính sách và Phát triển đề xuất nên xác định một ngưỡng nợ công phù hợp hơn cho giai đoạn mới 2016 - 2020, thay cho mức 65% hiện nay, đó là 68-70% GDP. Nếu tính thêm cả sai số, ngưỡng nợ phù hợp có thể ở mức 63-77% GDP.
Để kiểm soát nợ công, nhóm nghiên cứu của Học viện cũng khuyến nghị Chính phủ phải có cơ chế phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ hợp lý trong tài trợ thâm hụt ngân sách, quản lý nợ vay nước ngoài. Theo đó, kho bạc Nhà nước phát hành trái phiếu dài hạn và Ngân hàng Nhà nước mua thay vì các ngân hàng thương mại mua trái phiếu kho bạc như hiện nay, điều này sẽ khắc phục được rủi ro kỳ hạn từ việc sử dụng nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng để mua trái phiếu.
Đồng thời, trong giai đoạn 2015 - 2017, Nhà nước cần thoái vốn tối thiểu khoảng 50% tổng vốn chủ sở hữu hiện nay trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh nhằm giảm áp lực nợ công và nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách, vốn bị đánh giá đang ở mức tương đối thấp.
Theo Phương Linh (VnExpress.net)