Một lần nữa các nhà đầu tư trên toàn cầu đang hướng ánh mắt lo ngại về phía Trung Quốc. Và điều đó hoàn toàn hợp lý. Tăng trưởng kinh tế của quốc gia này trong quý III/2018 đã giảm xuống còn 6,5%, tốc độ chậm nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2009.
Lần đầu tiên sau 2 thập niên, Trung Quốc chứng kiến số lượng tiêu thụ xe hơi giảm. Apple đã cảnh báo vào đầu tháng 1 rằng sự trì trệ của Trung Quốc sẽ làm tốc độ tăng trưởng toàn cầu chậm lại cũng như khiến lợi nhuận các công ty đi xuống.
Cuộc khủng hoảng "mang màu sắc Trung Quốc"
Tuy nhiên, người dân Trung Quốc đã nhận ra điều này trước đó. Ngay sau đợt tăng giá gần đây, thị trường chứng khoán Thượng Hải vẫn giảm hơn 1/4 so với đỉnh năm 2018. Triển vọng tương lai không mấy tươi sáng.
Thuế quan mà Tổng thống Donald Trump áp lên hàng xuất khẩu Trung Quốc sang Mỹ đã gây tổn thương cho nhiều nhà máy tại quốc gia châu Á này. Sự lao dốc đột ngột trong kim ngạch nhập khẩu tháng 12 cho thấy nền kinh tế đang suy thoái mạnh đến nhường nào. Giờ đây, Bắc Kinh phải xuống nước và đàm phán với Washington để xoa dịu cuộc xung đột.
Một thỏa thuận thương mại, nếu xảy ra, có thể giúp các nhà đầu tư lạc quan hơn, và thậm chí có khả năng tạm thời kích thích tăng trưởng kinh tế. Dù vậy, nó sẽ không kết thúc các tai ương cho Trung Quốc. Thuế quan là một mối lo ngại lớn, nhưng các vấn đề sâu sắc hơn, lại nằm trong chính cấu trúc tài chính nước này.
Sự thật mà ít người chú ý là Trung Quốc trên thực tế đã lâm vào khủng hoảng. Đó không giống như kiểu sụp đổ trầm trọng mà Mỹ đã trải qua năm 2008 hay cuộc khủng hoảng dữ dội mà những con hổ của nền kinh tế Á châu đã chịu đựng vào năm 1997.
Cuộc khủng hoảng lần này, liên quan đến các khoản nợ xấu, các tập đoàn phải phá sản, và những gói cứu trợ từ chính phủ. Trung Quốc cho rằng mô hình chủ nghĩa tư bản Nhà nước của họ là “chủ nghĩa xã hội mang đậm bản sắc Trung Hoa”. Do đó, cuộc khủng hoảng tài chính này có thể gọi bằng cái tên “khủng hoảng mang màu sắc Trung Quốc”.
Cuộc khủng hoảng này không chỉ đơn thuần về việc tăng trưởng kinh tế đang chững lại, mà còn về cả tương lai kinh tế Trung Quốc rằng liệu nước này có thể đảm bảo được sự chuyển dịch cơ cấu cần thiết để đứng vào hàng ngũ các cường quốc có nền kinh tế tiên tiến nhất hay không. Và đây còn là cơ sở để xác định xem Trung Quốc sẽ đóng vai trò như trụ cột của tăng trưởng toàn cầu hay là mối đe dọa đối với sự ổn định tài chính thế giới.
Nhìn từ bên ngoài, các ý kiến cho rằng Trung Quốc đang khủng hoảng nghe tưởng chừng vô lý. Nhìn vào số liệu của chính phủ, dễ dàng nhận thấy dù tăng trưởng giảm nhưng con số vẫn duy trì ở mức khá cao.
Các ngân hàng và công ty chưa rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán trên diện rộng. Đồng nhân dân tệ thậm chí có dấu hiệu tăng lại trong những ngày gần đây.
Sự lo lắng gia tăng khiến người tiêu dùng Trung Quốc cắt giảm chi tiêu, nhưng bầu không khí chung vẫn chưa đến nỗi u ám, trầm trọng như thường thấy trong các biến động tài chính lớn.
Trung Quốc có thể không phải đối mặt với nỗi hoảng loạn xuất phát từ Phố Wall năm 2008. Cuộc khủng hoảng tài chính của riêng quốc gia này không xảy ra như bất kỳ cuộc khủng hoảng nào khác.
Thay vì một chấn động bất ngờ, làm sụp đổ các ngân hàng, cuốn phăng công ăn việc làm, phiên bản khủng hoảng tại Trung Quốc sẽ kéo dài và diễn biến chậm đến nỗi khó nhận thấy.
Nhưng đến cuối cùng, hậu quả và tổn thất thậm chí có thể nặng nề hơn những cuộc khủng hoảng mà thế giới từng chứng kiến.
Trung Quốc là một "con nghiện" nợ
Vài năm trước, một số quan sát viên dự đoán nền kinh tế Trung Quốc có thể sụp đổ tương tự như năm 2008. Báo động đỏ đã phần nào xuất hiện: bong bóng nhà đất; công suất dư thừa trong các ngành công nghiệp, từ thép cho đến pin mặt trời; và đáng lo ngại nhất là khoản nợ khổng lồ được tích tụ.
Theo thống kê từ Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), tổng nợ so với sản lượng quốc gia tại Trung Quốc đã lên đến tỷ lệ 253% vào giữa năm 2018, cao hơn rất nhiều so với mức 140% một thâp niên trước.
Kể từ những năm 1990, không một nền kinh tế mới nổi nào có số nợ tăng như vậy mà lại tránh được một cuộc khủng hoảng tài chính. Lịch sử đang không đứng về phía Trung Quốc.
Nhiều người đã chờ đợi “khoảnh khắc Lehman Brothers” của Trung Quốc nhưng có lẽ nó sẽ không bao giờ đến. Một số nhà phân tích nhận định quốc gia này “quá lớn để sụp đổ”.
Những lập luận mới đây cho rằng chính phủ Trung Quốc sử dụng rất nhiều đòn bẩy trong việc kiểm soát các ngân hàng, các tập đoàn lớn và dòng vốn. Điều đó giúp họ có thể ngăn ngừa khủng hoảng.
Trung Quốc đã thể hiện điều tương tự vào năm 2015 sau khi bong bóng chứng khoán bị vỡ, gây ra bởi sự quản lý cho vay yếu kém cùng sự bất lực của bộ máy quan liêu. Dòng tiền đã chảy ra nước ngoài khi đồng nhân dân tệ suy yếu. Những quan chức cấp cao đầy quyền lực của Trung Quốc chỉ cần một ngày để giải quyết những rủi ro. Trong khi đối với các thị trường mới nổi khác, những rủi ro đó có thể dẫn đến sụp đổ. Chính phủ Tập Cận Bình đã tổ chức một gói cứu trợ chứng khoán cùng với kiểm soát dòng vốn, và khủng hoảng được ngăn chặn.
Cách tiếp cận đó đại diện cho Bắc Kinh về một chiến lược tổng thể để giải quyết vấn đề nợ nần. Chính phủ, vốn đã ám ảnh bởi sự ổn định xã hội, không cho phép xảy ra một “vụ nổ” nào. Nhưng cuộc khủng hoảng tài chính mang màu sắc Trung Quốc này dù sao đi chăng nữa vẫn đang gây ra thiệt hại cho nền kinh tế như những cuộc khủng hoảng khác.
Sức khỏe các ngân hàng Trung Quốc đang bị ảnh hưởng một cách nguy hiểm. Mặc dù tỷ lệ nợ xấu đạt mức cao nhất trong thập kỷ vào cuối năm 2018, nhưng tỷ lệ vẫn dưới 2%. Tuy vậy, rất ít ai tin vào con số đó.
Charlene Chu, nhân viên cấp cao từ Autonomous Research và là một trong những chuyên gia hàng đầu về rủi ro tín dụng Trung Quốc, ước tính rằng mức nợ xấu đã lên đến 24%, tương đương 8.500 tỷ USD. Điều này tưởng như được phóng đại, nhưng trong cuộc khủng hoảng năm 1997, các khoản nợ xấu tại Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan đã lên tới 1/3 trong tổng các khoản vay.
Trong một nghiên cứu vào tháng 10, S&P Global Ratings nhấn mạnh rằng số nợ của các chính quyền địa phương ở Trung Quốc vẫn đang là ẩn số, vì rất nhiều trong số đó được đưa ra ngoài bảng cân đối kế toán. Khoản nợ “ngầm” đó có thể “gấp nhiều lần con số được công khai”, khoảng 6.000 tỷ USD. S&P gọi đó là “tảng băng nợ với rủi ro tín dụng khổng lồ”.
Đa số chỉ nhìn thấy phần nổi của “tảng băng”. Những chính quyền địa phương thường thực hiện các biện pháp chi tiêu vào hạ tầng cơ sở nhằm kích thích tăng trưởng. Nhưng hiện với rất nhiều nợ nần, vai trò của việc chi tiêu đó đang chạm ngưỡng giới hạn.
Việc dòng vốn chảy ra ngoài là một đặc điểm khác của khủng hoảng tài chính. Trung Quốc đã đứng đầu trong bảng xếp hạng số người nước ngoài đầu tư bất động sản Mỹ trong 6 năm liên tiếp. Trong 12 tháng tính đến hết tháng 3 năm 2018, họ đã mua khối lượng nhà đất trị giá lên đến 30 tỷ USD. Nhà đầu tư Canada chỉ bằng 1/3 trong số đó, còn Anh và Ấn Độ là 1/4.
Về lý thuyết, cuộc khủng hoảng theo kiểu Trung Quốc có một số “lợi thế” nhất định. Bằng cách duy trì tăng trưởng và công ăn việc làm, Bắc Kinh đang tập trung thời gian để củng cố hệ thống. Các nhà quản lý đang nỗ lực để đẩy lùi một số vấn đề, chẳng hạn như việc số lượng công ty phá sản đã tăng mạnh trong năm trước.
Nhưng quá trình đẩy lùi, “dọn dẹp” này diễn ra quá chậm làm tăng khả năng kéo dài khủng hoảng. Những gì chính phủ Trung Quốc cần lúc này là đại tu các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả với quy mô lớn.
Tình hình càng tồi tệ hơn khi các nhà hoạch định chính sách vẫn “cứng đầu” hướng tới những mục tiêu tăng trưởng vốn sẽ bất khả thi nếu không bơm thêm tín dụng. Trung Quốc như một “con nghiện” nợ, và như những con nghiện khác, quốc gia này cần một “liều thuốc” tín dụng. Một khi “liều thuốc” ngắn hạn đó mất dần tác dụng, nền kinh tế sẽ chậm lại.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thử lại phương án bơm tín dụng. Phần lớn sự chững lại ở tăng trưởng trong thời gian gần đây xuất phát từ những nỗ lực của chính phủ để hạn chế nợ. Đầu tháng 1, ngân hàng trung ương đã giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giúp các ngân hàng có thêm khả năng cho vay nhiều hơn, đồng nghĩa với việc có thêm nhiều khoản nợ xấu.
"Vạn lý trường thành" của các khoản nợ
Theo Dinny McMahon, tác giả cuốn sách “China’s Great Wall of Debts”, nhiều khoản nợ xấu sẽ lại được sinh ra và gây nên nhiều rắc rối như trong suốt thập kỷ qua.
Theo nghĩa đó, dường như chính phủ Trung Quốc đang khiến cho cuộc khủng hoảng tại quốc gia này tồi tệ hơn những cuộc khủng hoảng thông thường. Những sự phá sản như Lehman Brothers có thể đáng sợ nhưng đồng thời cũng là cơ hội để thị trường “thanh lọc” những điều tồi tệ, giữ lại những điều tốt. Bắc Kinh đang cố gắng để ngăn chặn một sự “thanh lọc” như vậy, và điều đó chỉ khiến lượng “rác thải” tồn đọng tại Trung Quốc ngày một nhiều hơn.
Cuối cùng, Nhà nước sẽ phải dọn dẹp mớ hỗn độn đó, như chính phủ Mỹ đã làm năm 2008. Sửa chữa hệ thống ngân hàng Trung Quốc đòi hỏi những chương trình cứu trợ tài sản xấu.
Nhìn lại quá khứ, thật dễ dàng để tính được mức phí cho việc này có thể lớn đến mức nào. Chính phủ Hàn Quốc đã bỏ ra khoảng 31% GDP để cứu lấy hệ thống tài chính sau cuộc khủng hoảng 1997. Con số đó tại Indonesia là 57%.
Hiệp hội nghiên cứu Conference Board cho rằng mức tăng năng suất của Trung Quốc đã âm từ năm 2012.
Với việc Trung Quốc đang chìm đắm trong nợ nần, mỗi nỗ lực kích thích nền kinh tế bằng tín dụng mới lại có tác dụng ngày càng nhỏ hơn. Như công ty Fathom Consulting đã giải thích, mô hình kinh tế cũ của Trung Quốc đang thể hiện mức lợi nhuận cận biên giảm dần.
Có lẽ sẽ đến thời điểm mà ngay cả các nhà hoạt động chính sách Trung Quốc nhận ra khoản nợ này rất nguy hiểm, và việc kiểm soát nó phải được ưu tiên đặt lên hàng đầu chứ không phải tăng trưởng. Dù vậy, rất khó để “thức tỉnh” họ.
Lạm phát cao hơn có thể sẽ là yếu tố thay đổi cuộc chơi, vì điều đó cản trở việc ngân hàng trung ương tiếp tục đổ tiền vào hỗ trợ hệ thống hiện nay. Nhưng điều này khó xảy ra, ít nhất trong ngắn hạn. Có những mối lo rằng Trung Quốc đang bước vào thời kỳ giảm phát, khiến cho khoản nợ là một gánh nặng ngày càng lớn hơn.
Đâu là giải pháp để ngăn ngừa khủng hoảng?
Giải pháp duy nhất, theo như tác giả McMahon, là phải thay đổi phương thức tăng trưởng của nền kinh tế. Các nhà kinh tế và chính sách đã tranh luận về việc Trung Quốc cần phải “tái cân bằng”, chuyển dịch từ đầu tư sang tiêu dùng.
Mỗi lần chính phủ sử dụng tín dụng để thúc đẩy tăng trưởng là một lần trở ngại được tạo ra cho cải cách hệ thống kinh tế. Theo Fathom Consulting, Bắc Kinh đang “né tránh các thực tiễn kinh tế của việc tái cân bằng đồng thời tích tụ thêm các rắc rối cho tương lai”.
Các chính sách công nghiệp mới nhất của Chủ tịch Tập Cận Bình có thể sẽ mang đến nhiều sản phẩm đáng mong đợi như robot, vi mạch, xe điện… Nhưng, đi kèm với đó là một mớ hỗn độn không còn xa lạ: quá nhiều nhà máy, quá nhiều khoản nợ, và quá nhiều sự lãng phí.
Ngay cả khi cách tiếp cận của ông Tập có khả năng tạo ra nhiều lĩnh vực và tăng trưởng mới, nó cũng không thể phục hồi các tác hại đã gây ra. Các khoản nợ xấu sẽ không tự nhiên mà biến mất.
Khác biệt duy nhất của cuộc khủng hoảng tài chính mang sắc màu Trung Quốc so với phần còn lại chính là thời gian. Hầu như các cuộc khủng hoảng tài chính kéo dài vài tháng, còn ở Trung Quốc có thể đo bằng đơn vị năm.
Là nền kinh tế mới nổi hàng đầu, Trung Quốc đáng ra nên đóng vai trò như nguồn hỗ trợ cho nền kinh tế thế giới đang lao dốc. Nhưng nếu chưa giải quyết được khủng hoảng tài chính, quốc gia này sẽ vẫn là nguồn cơn gây căng thẳng trên toàn cầu.
Theo Minh Đức (Tri Thức Trực Tuyến)