Ngân hàng Nhà nước vừa cập nhật dữ liệu về tình hình tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tiền gửi của khách hàng tại tổ chức tín dụng, tính đến tháng 6/2021.
Cụ thể, tới cuối tháng 6/2021, tổng phương tiện thanh toán đạt hơn 12,6 triệu tỷ đồng, tăng 4,43% so với cuối năm 2020.
Trong đó, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt trên 5,11 triệu tỷ đồng, tăng 4,78% so với cuối năm 2020, gần bằng với lượng tiền gửi của dân cư là hơn 5,29 triệu tỷ đồng, chỉ tăng 2,94%.
So với số liệu cuối tháng 5, tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã tăng thêm 1,48%, trong khi đó tiền gửi của dân cư chỉ tăng thêm 0,34% trong vòng 1 tháng.
So với đầu năm 2020, tiền gửi của các doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng đã tăng tới 29%, trong khi tiền gửi dân cư chỉ tăng 9,6%.
Việc tiền gửi của doanh nghiệp tăng mạnh trong hơn 1 năm trở lại đây được đánh giá là do tác động của đại dịch COVID-19. Trước sự bùng phát của dịch bệnh, các biện pháp giãn cách, hạn chế tiếp xúc đã khiến nhiều doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động hoặc thu hẹp sản xuất, lo ngại thiếu đầu ra, do vậy doanh nghiệp "bật chế độ" phòng thủ, gửi tiền vào ngân hàng để đảm bảo an toàn.
Trong khi đó, tiền gửi dân cư có dấu hiệu tăng chậm lại khi lãi suất tiền gửi xuống thấp.
Theo Tổng cục Thống kê, mặt bằng lãi suất huy động vào nửa đầu năm 2021 tương đối ổn định sau khi giảm mạnh trong năm ngoái. Kênh tiền gửi ngân hàng giảm sức hấp dẫn, người dân chuyển sang các kênh đầu tư có khả năng sinh lời cao hơn như chứng khoán, bất động sản...
Thống kê của Công ty Chứng khoán Maybank Kim Eng (MBKE) cho thấy, luỹ kế 6 tháng đầu năm, lợi nhuận trước thuế của 17 ngân hàng niêm yết tăng 55% so với cùng kỳ năm trước, đạt 94.000 tỷ đồng. Trong đó, các ngân hàng quy mô nhỏ như dẫn đầu đà tăng trưởng do cơ sở so sánh thấp và/hoặc ghi nhận khoản phí trả trước từ việc hợp tác kinh doanh bảo hiểm.
Xét về động lực tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm chủ yếu vẫn đến từ thu nhập lãi thuần (NII) khi chiếm 70-80% tổng lợi nhuận hoạt động của các ngân hàng. Trung bình, các ngân hàng đều ghi nhận tăng trưởng NII 33% so với cùng kỳ năm ngoái nhờ tăng trưởng cho vay ổn định và NIM mở rộng lên mức 4,6%.
Ngoài ra, thu nhập từ phí của các ngân hàng cũng tăng trưởng rất mạnh nhờ vào phí bán chéo bảo hiểm, phí thanh toán và phí từ thẻ. Các ngân hàng có sự đóng góp từ quan hệ đối tác banca độc quyền (bao gồm cả phí trả trước và phí hoa hồng) là những ngân hàng có mức tăng trưởng mạnh nhất, bao gồm VCB, ACB, SHB, LPB, MSB…
Nhờ vào thu nhập từ lãi và các khoản thu nhập tương tự tăng vượt trội trong 6 tháng đầu năm, các ngân hàng trong nước đã chủ động tăng trích lập dự phòng để xoá nợ xấu và tăng cường dự phòng rủi ro cho vay trước diễn biến phức tạp của COVID-19. MBKE ước tính tỷ lệ trích lập dự phòng bình quân (hay còn gọi là phí suất tín dụng) của 17 ngân hàng niêm yết sẽ tăng lên mức 1,75% trong nửa đầu năm 2021 (so với mức 1,58% vào quý 1/2021; 1,5% nửa cuối năm 2020 và cả năm 2020).
Phí trích lập dự phòng tăng đột biến tại một số ngân hàng như ACB, SHB hay EIB là do mức cơ sở so sánh thấp. Do đó, ngay cả với mức tăng như vậy, tỷ lệ trích lập dự phòng của các ngân hàng này vẫn ở mức dưới 1,5%.
Riêng về các tỷ lệ an toàn hệ thống, MBKE ước tính các ngân hàng thương mại đang duy trì CAR ở mức 11,3%; tỷ lệ LDR bình quân quanh ngưỡng 78%. Điều này cho thấy các ngân hàng vẫn còn dư địa đáng kể để duy trì NIM trong nửa cuối năm 2021 trong bối cảnh lợi suất cho vay giảm (bằng cách tăng LDR)
Đồng thời, kết thúc 6 tháng đầu năm 2021, tỷ lệ nợ xấu tại các ngân hàng niêm yết vẫn được duy trì ở mức ổn định. Mặt khác, nhờ thu nhập từ lãi và các khoản thu nhập tương tự tăng mạnh, các ngân hàng trong nước đã chủ động tăng cường trích lập dự phòng để củng cố dự phòng rủi ro cho vay.
“Vì vậy, tỷ lệ bao phủ nợ xấu trung bình đã được nâng từ mức 60-70% vào 3 năm trước lên 125% vào cuối năm 2020 và tiếp tục tăng lên mức trung bình 150% vào cuối nửa đầu năm 2021”, MBKE nhận định.
Theo Minh Thái (Báo Đất Việt)