Con số khủng khiếp
Theo TS Nguyễn Thanh Sơn, theo ước tính mỗi năm nước ta sử dụng 1.000 đến 1.200 tấn kháng sinh, trong đó có hơn 40 tấn dành cho gia cầm và hơn 980 tấn cho chăn nuôi lợn.
"Đây là một con số khủng khiếp, chưa kể các vật nuôi khác như trâu, bò, dê, cừu. Đến nay, theo điều tra gần như 100% các trang trại chăn nuôi đều sử dụng từ 2 đến 7 loại kháng sinh từ các loại phòng, điều trị bệnh đến loại kháng sinh kích thích sinh trưởng cho đàn gia súc và gia cầm với liều lượng gấp đôi, thậm chí gấp 5 đến 10 lần so với khuyến cáo trên bao bì, nhãn mác của các loại thuốc đó. Điều đáng báo động hơn là trang trại chăn nuôi ở Bắc Ninh, Hải Phòng còn sử dụng một số kháng sinh cấm trong chăn nuôi, điều này gây ra hệ lụy rất nghiêm trọng trong chăn nuôi cũng như việc tồn dư kháng sinh nguy hiểm trên sản phẩm vật nuôi", ông Sơn nói.
Chia sẻ với chúng tôi, bà Nguyễn Thị Thân, một nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ tại xã Chuyên Ngoại, huyện Duy Tiên (Hà Nam) cho biết, từ trước đến nay bà con ở quê theo thói quen cứ thấy vật nuôi đau, ốm là tìm đến các của hàng trên địa bàn để mua thuốc về chữa trị, trừ trường hợp lợn, gà bị nặng mới gọi bác sỹ thú y."Biết là sự dụng nhiều kháng sinh cho vật nuôi cũng nguy hiểm nhưng chúng tôi không có cách nào khác đâu", bà Thân nói.
Ông Sơn cho biết, trước tình hình đó thì Chính phủ, Bộ NNPTNT đã ban hành văn bản hướng dẫn để kiểm soát về kháng sinh và các chất cấm trong chăn nuôi. Cụ thể, trong năm 2017, Bộ cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn, nhất là các chương trình hành động quốc gia về quản lý kháng sinh trong chăn nuôi.
"Tôi đề nghị các cơ quan quản lý nhà nước xem xét cụ thể hơn về chương trình hành động quốc gia về kiểm soát kháng sinh trong chăn nuôi. Theo tôi chương trình này không chỉ triển khai từ nay đến năm 2020 mà nên kéo dài và chia ra làm 2 giai đoạn từ nay đến 2025 và từ 2025 - 2030. Theo các giai đoạn đó các cơ quan thực hiện phải có chương trình hành động rất cụ thể và đưa ra tiêu chí để kiểm soát, cũng như minh bạch hóa.
Theo Luật Chăn nuôi đã được ban hành và có hiệu lực bắt đầu vào ngày 1/1/2020 thì người sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi phải được kê đơn từ bác sỹ thú y, việc quy định theo văn bản là như vậy nhưng thực tế việc kiểm soát được hay không lại là câu chuyện khác. Vì thế việc kiểm soát sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi cũng như các chất khác là một câu chuyện lâu dài và cần có một chương trình hành động quyết liệt từ các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các cơ quan truyền thông để tuyên truyền cho người dân thì chúng ta mới kiểm soát được việc làm dụng kháng sinh và kháng kháng sinh như hiện nay", ông Sơn khẳng định.
Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Gợi ý thêm về giải pháp, ông Sơn cho hay: Bên cạnh việc đưa ra các quy định kiểm soát việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi như quy định về các kháng sinh được dùng, liều lượng dùng, mua kháng sinh phải theo đơn của bác sỹ thú y... Và một điều quan trọng nữa là chúng ta phải áp dụng 2 giải pháp quan trọng nữa đó là phải sử dụng các chế phẩm sinh học thay thế như probiotic hoặc là các men vi sinh khác để thay thế thuốc kháng sinh mà các nước đang áp dụng rất hiệu quả.
Thứ 2 là chúng ta phải áp dụng các giải pháp về an toàn sinh học (ATSH), đây là một giải pháp rất hữu hiệu để phòng, chống dịch bệnh kể cả các dịch bệnh nguy hiểm trên lợn như dịch tả lợn châu Phi, dịch lở mồm long móng... cũng như cúm gia cầm, khi bà con áp dụng giải pháp này thì vật nuôi có nguy cơ mắc bệnh ít hơn sẽ làm giảm được việc sử dụng thuốc mà sản phẩm còn đảm bảo an toàn hơn.
TS Lê Văn Thông - Phó Chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Chăn nuôi gia súc lớn Việt Nam cho rằng: Cùng với các giải pháp về quản lý kiểm soát, sử dụng các chế phẩm sinh học nhập khẩu, chúng ta nên tăng cường nghiên cứu và sử dụng thêm các sản phẩm chế phẩm sinh học có nguồn gốc thảo dược trong nước sẽ giúp giảm được chi phí đầu vào mà vẫn cho hiệu quả cao, đảm bảo sản phẩm an toàn.
"Hiện nay, Việt Nam đã có sản phẩm chế phẩm sinh học thảo dược và đã được nhiều đơn vị, trang trại tại các tỉnh, thành sử dụng rất thành công. Mong rằng trong thời gian, với lợi thế, tiềm năng sẵn có của mình, chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu và đưa ra thị trường nhiều sản phẩm chế phẩm sinh học có nguồn gốc thảo dược, thực vật mới để người chăn nuôi sử dụng. Từ đó giúp nông dân giảm dần việc sử dụng, lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi", TS Lê Văn Thông nhấn mạnh.
Bà Hoàng Lan, đại diện của Tổ chức FAO tại Việt Nam cho biết, trong giai đoạn từ 2012 đến 2019, FAO đã phối hợp cùng với Cục Chăn nuôi (Bộ NNPTNT) thực hiện chương trình "Tăng cường quản lý sản xuất và ATSH trong chăn nuôi gia cầm". Theo đó, ngay từ ban đầu (2012-2014) chương trình tập trung vào đánh giá nguy cơ dịch bệnh tại hộ chăn nuôi gia cầm quy mô trung bình, nhỏ và thực hiện thí điểm thành công mô hình ATSH tối thiểu tại 6 cơ sở ấp nở trứng, 6 hộ chăn nuôi vịt giống tại miền Trung và miền Nam.
Tiếp đó từ năm 2016, FAO tiếp tục tiếp tục hợp tác với Bộ NNPTNT thực hiện Chương trình tăng cường ATSH và thực hành quản lý sản xuất tốt tại các tỉnh có mật độ chăn nuôi gia cầm cao. Cụ thể, chương trình tiến hành đào tạo cho 42 cán bộ nguồn, tập huấn cho 1077 nông dân và 330 cán bộ quản lý và khuyến nông, thú y cơ sở. Cùng với đó, chương trình cũng đã tiến hành xây dựng 60 trại mô hình và cơ sở ấp nở tại 7 tỉnh đại diện cho 3 vùng Bắc, Trung, Nam trong việc cải tạo điều kiện chăn nuôi, quản lý chất thải và nâng cấp cơ sở ấp trứng.
"Đến nay chương trình đã thành công giúp nông dân tăng được năng suất chăn nuôi, tăng thu nhập và giảm lượng kháng sinh và chất khử trùng sử dụng từ 20-50% do giảm bệnh đường hô hấp và đường ruột...", bà Lan chia sẻ.
Giá sản phẩm gia cầm sẽ tăng dần
TS Nguyễn Thanh Sơn - Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam cho rằng: Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến giá trứng gia cầm giảm sâu dưới giá thành trong thời gian vừa qua là do nguồn cung tăng cao vượt quá cầu.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê trong năm 2018, sản lượng trứng gia cầm tăng gần 10% đạt khoảng hơn 11 tỷ quả, tuy nhiên theo tính toán của các chuyên gia trong ngành thì sản lượng trứng của chúng ta phải vượt xa hơn con số đó rất nhiều khoảng 18 đến 19 tỷ quả.
Rõ ràng với số lượng trứng như thế đã vượt nhu cầu của nước ta làm cho giá trứng từ trước và nhất là sau Tết giảm sâu dưới giá thành rất nhiều khiến người chăn nuôi chịu thua lộ nhiều.
Theo tôi, các cơ quan quản lý nhà nước cũng nên xem lại cách tính toán về về số liệu thống kê sản phẩm chăn nuôi gia cầm để có chiến lược phát triển cho phù hợp đối với ngành hàng này.
Bởi nếu chúng ta sản xuất với sản lượng trứng lớn trên dưới 19 tỷ quả như hiện nay thì Việt Nam sẽ trở thành quốc gia nằm trong tốp 10 nước sản xuất trứng lớn của thế giới khiến việc tiêu thụ sản phẩm này sẽ gặp khó khăn. Chính vì thế, trong chiến lược phát triển của chúng ta không nên tăng ồ ạt về sản lượng mà nên ta nên đi sâu vào chất lượng, giống như xu thế của thế giới là đầu tư vào nuôi gà tiêu chuẩn, gà chất lượng cao, gà có giá trị gia tăng cao thì khi đó mới đem lại lợi nhuận và giúp bà con tránh được câu chuyện được mùa mất giá như hiện nay.
Tương tự như vậy, sản lượng thịt gà sản xuất hàng năm của nước ta cũng không chỉ dừng ở con số mà Tổng cục Thống kê công bố khoảng hơn 1 triệu tấn, mà theo tính toán dựa theo cơ sở số lượng con giống sản xuất hàng năm, sản lượng thức ăn dành cho chăn nuôi gia cầm thì sản lượng thịt gia cầm của chúng ta cũng phải đạt khoảng trên 2 triệu tấn. Với sản lượng này Việt Nam cũng sẽ trở thành một trong 10 quốc gia sản xuất thịt gà lớn nhật của thế giới.
Theo nhận định của chúng tôi với diễn biến tình hình dịch bệnh như hiện nay, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi sẽ ảnh hưởng đến thị trường chăn nuôi nói chung và gia cầm nói riêng trong ngắn hạn từ quý II đến quý III giá một sản phẩm gia cầm như trứng, thịt gà... sẽ có chiều hướng tăng lên. Và đi lên là tất yếu, bởi khi nguồn cung thịt lợn giảm dần do một số địa phương bị dịch tả thì phải tiêu hủy và người dân chưa tái đàn dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn cung về thịt lợn và người tiêu dùng sẽ quay sang dùng các sản phẩm khác như gia cầm, thịt bò, hải sản.
Theo dự báo của Hiệp hội chăn nuôi gia cầm Việt Nam, sản xuất gia cầm của nước ta sẽ có tăng trưởng về số lượng, ước tính đến năm 2020 tăng khoảng 5,5 đến 6%/năm và đến năm 2025 sẽ tăng 4,5-5%/năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng chăn nuôi công nghiệp dự báo sẽ tăng lên khoảng 50% và tăng 55% vào năm 2025. Trong đó gà lông màu duy trì ở mức 60-65%, tỷ lệ gà đẻ trứng thương phẩm khoảng 20-25%.
Riêng về sản phẩm chăn nuôi cũng có mức tăng trưởng cao khoảng 7%/năm từ nay đến năm 2025, tương ứng với tỷ trọng thịt gia cầm sẽ tăng dần lên 30%.
Theo Trần Quang (Dân Việt)