Theo Thông cáo báo chí vừa được phát đi từ Bộ TT&TT, việc quy hoạch lại độ dài quay số (bao gồm cả mã vùng hoặc mã mạng và số mào đầu quốc gia) đối với mạng cố định, mạng di động là để đạt được sự thống nhất; đảm bảo công bằng cho doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ.
Lý giải cho sự thay đổi này, thông cáo nêu rõ, theo thống kê, trong những năm vừa qua số lượng thuê bao di động ngày càng tăng, ngược lại số lượng thuê bao điện thoại cố định ngày càng giảm. Xu hướng suy giảm số thuê bao điện thoại cố định có thể vẫn diễn ra trong những năm tới. Hiện tại, tổng số thuê bao điện thoại cố định và di động khoảng 130 triệu, trong đó số lượng thuê bao điện thoại cố định khoảng gần 7 triệu (chiếm khoảng 5,4% tổng số thuê bao), số lượng thuê bao điện thoại di động khoảng hơn 120 triệu (chiếm khoảng 94,6% tổng số thuê bao). Tổng số đầu mã tối đa có thể quy hoạch làm mã vùng và mã mạng là 9. Theo quy hoạch cũ thì số đầu mã làm mã vùng cho mạng cố định là 7 và làm mã mạng cho mạng di động là 2. Điều này bộc lộ sự thiếu hiệu quả trong quy hoạch, sử dụng kho số giữa mạng cố định và mạng di động. Về lâu dài, với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường viễn thông di động sẽ dẫn đến thiếu số cho di động trong khi thừa số cho cố định.
Do đó, Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch 1 đầu mã làm mã vùng; 8 đầu mã làm mã mạng, trong đó 6 đầu mã làm mã mạng cho mạng di động, 1 đầu mã làm mã mạng sử dụng cho thuê bao di động là thiết bị và 1 đầu mã làm mã mạng cho các mạng viễn thông khác như mạng viễn thông cố định vệ tinh, mạng viễn thông dùng riêng, mạng điện thoại Internet và dự phòng.
Đối với mã vùng cố định, theo Quy hoạch cũ và thực tế đang sử dụng, độ dài mã vùng là 1, 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao là 7 hoặc 8 chữ số. Cụ thể là: Về độ dài mã vùng, 2 thành phố (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 1 chữ số; 37 tỉnh/thành phố có độ dài 2 chữ số và 24 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số. Về độ dài số thuê bao điện thoại cố định, 2 thành phố ( Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 8 chữ số; 61 tỉnh/thành phố có độ dài 7 chữ số. Điều này dẫn đến độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là không thống nhất, tùy theo tỉnh/thành phố mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’. Việc không có sự thống nhất trong độ dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ.
Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch độ dài mã vùng là 2 hoặc 3 chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại cố định giữ nguyên là 7 hoặc 8 chữ số phụ thuộc vào vùng đánh số cụ thể. Cụ thể là: Về độ dài mã vùng, 2 thành phố (thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) có độ dài 2 chữ số; 61 tỉnh/thành phố có độ dài 3 chữ số. Về độ dài số thuê bao điện thoại cố định thì vẫn giữ nguyên như hiện tại. Như vậy, độ dài quay số khi gọi đường dài trong nước hoặc gọi từ mạng di động đến thuê bao điện thoại cố định là thống nhất trên toàn quốc, đều là 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’.
Không chỉ mã vùng cố định mà Thông tư 22 cũng đề cập đến việc quy hoạch lại mã mạng di động. Theo Quy hoạch cũ và thực tế đang sử dụng, độ dài mã mạng di động là 2 (đầu 9x) và 3 (đầu 1xx) chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại di động là 7 chữ số. Điều này dẫn đến độ dài quay số khi gọi đến thuê bao điện thoại di động là không thống nhất, tùy theo mã mạng mà độ dài quay số là 10 hoặc 11 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’. Với việc không có sự thống nhất trong độ dài quay số dẫn đến dễ gây nhầm lẫn và khó nhớ đối với người sử dụng dịch vụ, không đảm bảo công bằng trong quay số.
Quy hoạch mới đã giải quyết bất cập này bằng việc quy hoạch độ dài mã mạng di động là 2 chữ số, độ dài số thuê bao điện thoại di động vẫn giữ nguyên như hiện tại là 7 chữ số. Như vậy, độ dài quay số khi gọi đến thuê bao điện thoại di động là thống nhất đối với tất cả các doanh nghiệp viễn thông và người sử dụng dịch vụ, đều là 10 chữ số bao gồm cả số mào đầu quốc gia ‘0’.
Đồng thời, Quy hoạch mới cũng đã bổ sung thêm các mã số sử dụng cho dịch vụ mới, cũng như dự phòng cho các dịch vụ có thể được phát triển trong tương lai, chẳng hạn như: Số dịch vụ tin nhắn ngắn; mã mạng và số thuê bao điện thoại Internet, mã mạng và số thuê bao mạng viễn thông di động mặt đất sử dụng cho thuê bao viễn thông là thiết bị, số dịch vụ giải đáp thông tin…
Những mã, số được quy hoạch trước đây như mã dịch vụ nhắn tin (radio paging), mã dịch vụ Internet (truy nhập Internet tốc độ thấp qua Modem theo hình thức dial-up)… đến nay không còn sử dụng nữa thì sẽ được loại bỏ ra khỏi quy hoạch để giải phóng các mã, số dùng cho các dịch vụ có nhu cầu sử dụng cao hoặc dịch vụ mới; đảm bảo việc sử dụng kho số tiết kiệm, hiệu quả.