Nhiều người có xu hướng lưu trữ thức ăn thừa trong tủ lạnh mà không biết rằng điều này có thể dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng cho sức khỏe dạ dày. Tủ lạnh giúp làm chậm quá trình hư hỏng của thực phẩm nhưng không thể ngăn chặn hoàn toàn sự biến đổi hóa học và vi khuẩn phát triển.
Đặc biệt, một số thực phẩm sau khi nấu chín, nếu để trong tủ lạnh quá lâu rồi hâm nóng lại nhiều lần, có thể sản sinh ra các chất có hại, đặc biệt là nitrit. Khi vào dạ dày, nitrit có thể kết hợp với các hợp chất khác để tạo ra nitrosamine – một chất gây ung thư mạnh.
Một số thực phẩm cần đặc biệt lưu ý
1. Rau xanh đã nấu chín
Trên thực tế, một số loại rau xanh có chứa hàm lượng nitrat cao. Tuy nhiên, nếu để quá lâu sau khi nấu chín, đặc biệt là khi đun nóng lại có thể khiến nitrat trong rau sẽ chuyển hóa thành nitrit dưới tác động của vi khuẩn, có thể gây hại cho sức khoẻ.
Cùng với đó, chất lượng và độ an toàn của các loại rau xanh đã nấu để qua đêm phụ thuộc vào một số yếu tố khác như thời gian bảo quản, nhiệt độ, độ tươi của thực phẩm, cách làm nóng và làm nguội trước khi cho vào tủ... Chính vì vậy, khi nấu rau xanh, chỉ nên nấu lượng vừa đủ cho một bữa, tránh nấu lại.
2. Khoai tây
Khoai tây là một trong những loại củ cung cấp lượng tinh bổ phong phú. Tuy nhiên, nếu khoai tây đã để trong tủ lạnh trong một thời gian dài, đặc biệt là khi vỏ chuyển sang màu xanh hoặc nảy mầm, thì bạn không nên ăn chúng.
Những chấm xanh và mầm này chứa một loại độc tố gọi là solanine, ăn quá nhiều có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến cơ thể con người, đặc biệt là ruột kết và gan. Đồng thời, khi mầm khoai tây bắt đầu hình thành, chất độc đã xâm nhập vào tế bào khoai tây và không có cách nào để loại bỏ nó.
Đặc biệt, khoai tây sau khi luộc chín lại tiếp tục trải qua quá trình làm lạnh sẽ khiến khoai tây gia tăng nồng độ một chất có hại gọi là acrylamide. Đây là một hoá chất dùng trong nhiều ngành công nghiệp và có khả năng gây ung thư ở người, đồng thời làm tổn thương hệ thần kinh nếu tiếp xúc với liều lượng lớn.
Chính vì vậy, tốt nhất nên bảo quản khoai tây - dù đã luộc hay chưa chế biến - ở nơi khô ráo trong nhiệt độ phòng sẽ giảm thiểu nguy cơ hình thành acrylamide, việc ăn uống trở nên an toàn hơn và lành mạnh hơn.
3. Món nộm, salad
Các món rau củ quả đã chế biến như nộm, salad... là một trong số những món ăn đặc biệt không nên để qua đêm bởi chúng chưa được làm nóng ở nhiệt độ cao, bên trong vẫn có thể ẩn chứa rất nhiều vi khuẩn. Khi bảo quản trong tủ lạnh, những vi khuẩn này có thể tiếp tục được sinh sôi ở nhiệt độ thấp. Từ đó sẽ kích thích đường ruột, gây ra các bệnh về đường tiêu hoá.
Cùng với đó, nếu bảo quản chưa đúng cách có thể chứa những vi khuẩn như Enterobacteriaceae, Salmonella... Những vi khuẩn này có thể gây ngộ độc thực phẩm, tiêu chảy, nôn mửa, sốt và các triệu chứng khác. Việc hấp thụ quá nhiều những vi khuẩn này có thể tác động tiêu cực đến sức khoẻ cũng như tổn hại hệ tiêu hoá, miễn dịch.
Hơn nữa, hàm lượng nitrit trong các món nộm, salad sau khi để qua đêm tương đối cao. Trong môi trường axit của dạ dày, nitrit dễ dàng chuyển hóa thành nitrosamine tăng nguy cơ gây ung thư.
4 thói quen dễ gây ung thư dạ dày
1. Ăn uống không đều đặn
Nhiều người có thói quen ba bữa ăn mỗi ngày không đều đặn vào cố định một khung giờ. Dạ dày có đồng hồ sinh học của nó, nếu ăn không cố định khung giờ ăn uống trong thời gian dài sẽ dễ gây tổn thương niêm mạc dạ dày.
Đồng thời, khi ăn quá no, thức ăn sẽ khó được tiêu hóa hết, khiến dạ dày thấy khó chịu. Những thói quen ăn uống không tốt này có thể tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến ung thư dạ dày.
Cùng với đó, việc bỏ bữa sáng cũng có thể làm tăng gánh nặng cho dạ dày vào những bữa ăn sau, dẫn đến khó tiêu, loét dạ dày và thậm chí là ung thư.
2. Hút thuốc, uống rượu
Hút thuốc lá làm tổn thương phổi, nhưng đồng thời đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến ung thư dạ dày. Bất kể hành vi hút thuốc là trong quá khứ hay hiện tại đều làm tăng từ 2 đến 3 lần nguy cơ mắc ung thư dạ dày.
Cùng với đó, thuốc lá có thể gây đột biến protein khối u P53 và một số enzym và từ đó tạo ra các chất gây ung thư khác nhau như dimethylnitrosamine, benzopyrene... Những chất này sẽ xâm nhập vào đường tiêu hóa thông qua tuần hoàn máu và làm tổn thương niêm mạc dạ dày và cuối cùng gây ra ung thư.
Rượu cũng là một trong những thứ gây hại với dạ dày. Những người uống nhiều rượu thường phải đối diện với nguy cơ viêm loét dạ dày và kéo theo đó là khả năng mắc ung thư dạ dày cũng tăng cao.
3. Thích ăn đồ ngâm muối, ăn mặn, đồ nướng
Hàm lượng muối trong các loại đồ muối như dưa cà muối, các loại thịt, hải sản ngâm muối... rất cao. Tù đó có thể dễ dàng kích thích niêm mạc dạ dày và gây tổn thương. Ngoài ra, những loại đồ ngâm muối này cũng thường chứa các chất gây ung thư. Thói quen ăn mặn cũng có khả năng gây ra hậu quả tương tự.
Cùng với đó, đồ nướng tuy có hương vị thơm ngon nhưng trong quá trình nướng sẽ sản sinh ra hydrocacbon thơm đa vòng tăng khả năng gây ung thư.
4. Căng thẳng kéo dài
Con người trong cuộc sống hiện đại phải chịu những áp lực rất lớn về mặt tâm lý. Dạ dày là một trong những bộ phận trong cơ thể liên quan nhiều đến cảm xúc nên rất dễ bị tác động bởi tâm lý tiêu cực.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc căng thẳng về mặt tâm lý có tác dụng thúc đẩy nhất định đối với sự xuất hiện của ung thư dạ dày. Các yếu tố tinh thần và tâm lý bất lợi có thể ức chế thần kinh phó giao cảm, giải phóng acetylcholine gây suy giảm khả năng miễn dịch hoặc có thể làm tăng hàm lượng oxy hoạt tính trong cơ thể, từ đó cho phép tính kích hoạt tế bào tiền ung thư dạ dày.
Ngoài ra, các bác sĩ cũng khuyến cáo nhóm người có nguy cơ mắc ung thư dạ dày cao gồm những người trên 40 tuổi, gia đình có tiền sử mắc ung thư dạ dày hoặc các loại ung thư, khối ung khác, nhiễm khuẩn HP (Helicobacter pylori), mắc các bệnh liên quan đến dạ dày như viêm loét dạ dày, viêm teo niêm mạc dạ dày hoặc từng trải qua phẫu thuật liên quan đến dạ dày... nên tiến hành tầm soát ung thư dạ dày định kỳ cũng thông qua nội soi dạ dày.
Ung thư dạ dày thường bị nhầm lẫn với loét dạ dày, viêm dạ dày, khó tiêu và các tình trạng khác nên một khi các triệu chứng này kéo dài và không cải thiện trong hơn 2 tuần, cần phải đi khám càng sớm càng tốt để tìm hiểu nguyên nhân.
Theo Phạm Trang (Thanh Niên Việt)