Đôi mắt của bạn sẽ cho biết bạn là người có khuynh hướng tình dục như thế nào

24/04/2016 09:11:25

Cho dù bạn đồng tính, không đồng tính hay lưỡng tính thì sự thật về khuynh hướng tình dục của bạn đều có thể được biểu hiện qua ánh mắt.

Cho dù bạn đồng tính, không đồng tính hay lưỡng tính thì sự thật về khuynh hướng tình dục của bạn đều có thể được biểu hiện qua ánh mắt.


Theo một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học tại Đại học Cornell, độ giãn mở đồng tử là một dấu hiệu chính xác cho thấy sự hấp dẫn giới tính đối với một người như thế nào. Khi nhìn vào những hình ảnh khêu gợi và bị kích thích, đồng tử sẽ giãn nở ra trong một phản ứng vô thức. Các nhà khoa học đã tận dụng đặc điểm này để nghiên cứu về định hướng và kích thích ham muốn tình dục mà không cần tới các biện pháp can thiệp vào bộ phận sinh dục.

Nghiên cứu này có thể coi là thử nghiệm đầu tiên được thực hiện trên quy mô lớn, cho thấy độ giãn nở đồng tử phù hợp với điều mà người ta thường mô tả là cảm giác bị khuấy động. Ritch Savin-Williams, nhà tâm lý học phát triển tại Đại học Cornell và là thành viên nhóm nghiên cứu trên, cho biết: “Nếu một người nói rằng anh ta không có rắc rối nào về giới tính, mắt anh ta sẽ giản nở về hướng có phụ nữ. Ngược lại với những người đàn ông đồng tính, đồng tử giãn nở khi đối tượng là nam giới thu hút họ”.

Mối liên hệ giữa kích cỡ đồng tử và tình trạng kích thích tình dục đã được nhắc tới từ lâu. Ở Italy thế kỷ 16, phụ nữ thường nhỏ thuốc mắt làm từ một loại thảo dược có độc tên là Belladona – có tác dụng giữ cho đồng tử không bị thu hẹp. Theo quan điểm thời bấy giờ, đó là biểu hiện của một vẻ ngoài quyến rũ.

Trên thực tế, Savin-William khẳng định, đồng tử giãn nở nhẹ để phản ứng với bất cứ kích thích nào gây hứng thú, bao gồm khuôn mặt của một người yêu thương hay một tác phẩm nghệ thuật đẹp. Độ giãn nở đồng tử là dấu hiệu cho thấy hệ thần kinh thực vật (là những cơ quan hệ thống trong cơ thể chịu sự chi phối của những bộ phận thần kinh hoạt động có tính chất tự động, không theo ý muốn của con người như hoạt động của tim, cơ quan hô hấp, hệ tiêu hóa) đang hoạt động mạnh.


Hạn chế của những nghiên cứu về khuynh hướng tình dục trước đây

Theo cách thức cũ, các nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu về khuynh hướng tình dục và kích thích ham muốn tình dục sẽ đề nghị người tham gia xem các bộ phim hoặc tranh ảnh khiêu dâm. Cơ thể họ trong lúc đó được gắn với các thiết bị giúp đo lưu lượng máu tới cơ quan sinh dục. Đối với nam giới, việc đo đạc này liên quan tới đo chu vi dương vật. Còn nữ giới sẽ dùng một dụng cụ dò để đo sự thay đổi áp suất trong mạch máu của thành âm đạo.

Những biện pháp đo đạc này có khá nhiều hạn chế. Theo Savin-William, một số người có khả năng kìm hãm kích thích ở cơ quan sinh dục của mình hay đơn giản là không có các phản ứng thường thấy trong môi trường phòng thí nghiệm. Và chưa kể đến vấn đề sử dụng thiết bị xâm lấn vào “chốn riêng tư” đó. “Một số người rõ ràng không hề muốn tham gia vào những nghiên cứu buộc phải sử dụng tới cơ quan sinh dục của họ”, nhà nghiên cứu Savin-William giải thích.

Chỉ hỏi người tham gia rằng trước vật kích thích được đưa ra, họ có bị khuấy động hay không là phương pháp cũng tiềm ẩn rắc rối không kém phương pháp trên. Lý do: nhiều người xấu hổ không dám thú nhận ham muốn của mình hoặc chính bản thân họ phủ nhận ham muốn đó. Ngoài ra việc đặt câu hỏi trực tiếp về khuynh hướng tình dục cũng là chủ đề nhạy cảm và không dễ thực hiện đối với nhiều nền văn hóa.

 
Phương pháp mới – đo độ giãn nở đồng tử

Để giải quyết những hạn chế này, Savin-William và đồng nghiệp Gerulf Rieger – cũng là giảng viên tại Đại học Cornell – đã chuyển hướng sang tìm hiểu về đồng tử. Họ tuyển 165 nam và 160 nữ, bao gồm cả người không đồng tính, đồng tính, lưỡng tính. Những người tình nguyện này xem riêng rẽ các đoạn clip dài 1 phút ghi lại cảnh 1 người đàn ông đang thủ dâm, 1 phụ nữ đang thủ dâm và những hình ảnh về cảnh sắc thiên nhiên. Các video này đều được chỉnh độ sáng y hệt nhau để đảm bảo sự khác biệt về ánh sáng không tác động tới kết quả.

Một máy quay theo dõi ánh mắt đã ghi lại hoạt động của đồng tử trong quá trình xem clip. Theo đó, mọi thay đổi dù là nhỏ nhất của đồng tử mắt cũng không bị bỏ qua. Người tham gia cũng tự mình ghi lại cảm nhận về độ kích thích ham muốn sau khi xem từng clip.

Kết quả cho thấy, độ giãn nở đồng tử phù hợp với các mẫu có được trong những nghiên cứu về độ kích thích ở cơ quan sinh dục. Đối với nam giới, mẫu này nhìn chung rất rõ ràng, cụ thể: Người không đồng tính phản ứng với hình ảnh khêu gợi của phụ nữ và người đồng tính phản ứng với hình ảnh khêu gợi của đàn ông. Người lưỡng tính có phản ứng với hình ảnh của cả nam lẫn nữ.

 
Đối với phụ nữ, mọi việc phức tạp hơn. Phụ nữ đồng tính cho thấy độ giãn nở đồng tử nhiều hơn khi xem hình ảnh những người nữ khác, tương tự như phản ứng của những người đàn ông không đồng tính. Nhưng phụ nữ không đồng tính, về cơ bản, giãn nở đồng tử với mức độ như nhau khi xem hình ảnh khiêu dâm của cả hai giới, mặc dù họ chỉ ghi lại cảm nhận bị kích thích dành cho nam, chứ không phải là nữ.

Điều này không có nghĩa là mọi phụ nữ không đồng tính đều có một phần lưỡng tính bí mật tồn tại trong người. Savin-William nhấn mạnh rằng, ham muốn chủ quan của họ không nhất thiết phải đồng nhất với ham muốn thực của cơ thể. Các nhà nghiên cứu về “sex” không dám chắc về nguyên do của việc này. Một giả thuyết được đưa ra là, do phụ nữ luôn phải đối mặt với nguy cơ bị lạm dụng tình dục trong suốt lịch sử loài người nên họ đã tiến hóa tới mức phản ứng với bất cứ kích thích tình dục nào, bất kể chúng có không hấp dẫn tới đâu. Cũng theo giả thuyết này, những người phụ nữ làm như vậy ít có khả năng tổn thương hoặc mắc bệnh nhiễm trùng sau khi bị lạm dụng tình dục và do đó, tăng khả năng họ sống sót để chuyển tiếp gen của mình sang thế hệ tiếp theo.

Theo Savin-William, bước tiếp theo mà họ dự định tiến hành sẽ là đồng thời sử dụng các biện pháp đo độ giãn nở đồng tử và sự thay đổi ở cơ quan sinh dục, để nghiên cứu cách người tham gia phản ứng như thế nào. Ông cho biết, công nghệ này có thể được dùng để tiến hành các nghiên cứu mang tính giao thoa văn hóa về tình dục, dựa trên đặc điểm rằng độ giãn nở đồng tử là yếu tố mang tính toàn cầu, có thể áp dụng cho nhiều quốc gia, nền văn hóa khác nhau mà không phụ thuộc vào quan niệm về khuynh hướng tình dục ở nơi đó như thế nào. Phương pháp này thậm chí có thể được sử dụng để giúp đỡ những người vẫn còn thấy bối rối, lầm lẫn về giới tính, tính dục của mình.

Theo Huyền Nguyễn (afamily.vn/Trí Thức Trẻ)