Người lưu trữ hồi ức
Khi công bố Annie Ernaux là chủ nhân giải Nobel Văn học năm 2022, Viện hàn lâm Thụy Điển ca ngợi: “Với lòng dũng cảm và sự nhạy bén, bà khám phá ra gốc rễ, sự ghẻ lạnh và những hạn chế của tập thể thông qua hồi ức cá nhân”.
Nếu phải mô tả Annie Ernaux, người ta nhớ đến các danh xưng như tiểu thuyết gia, nhà văn, nhà nữ quyền hay bậc thầy về giả tự truyện… Thế nhưng, Ernaux dùng từ khiêm tốn hơn để nói về bản thân. Trong cuốn A Woman’s Story (1987), bà viết: “Tôi chỉ là người lưu trữ”.
Thật vậy, trong hơn 6 thập kỷ viết lách và với hơn 20 cuốn sách xuất bản, nữ nhà văn Pháp không chỉ là người ghi chép lại những kinh nghiệm cá nhân hay của thế hệ bà, mà còn dệt nên những mảnh vỡ phản ánh cuộc sống của thế hệ cha mẹ bà và của những người khác trong giai cấp.
Các tác phẩm của Ernaux có chủ đề đa dạng, mang hơi thở cuộc sống như tình dục và mối quan hệ thân mật, bất bình đẳng xã hội, sự mất mát, xấu hổ và cuộc đấu tranh giữa thời gian và ký ức. Tất cả đều dựa trên hồi ức trong cuộc đời 82 năm của người viết.
Với cuốn Happening (2000), bà nhớ lại trải nghiệm đau thương khi phá thai ở Pháp vào năm 1963 – thời điểm việc nạo phá thai vẫn bị cấm. The Frozen Woman (1981) là về cuộc hôn nhân khiến bà sợ “ vĩnh viễn mất đi sự cô độc”. Sang cuốn A Man’s Place (1983) đề cập đến mối quan hệ với cha ruột. A Woman's Story (1987) nhắc nhở về cái chết của mẹ bà do bệnh Alzheimer…
Điều khiến công việc của Ernaux trở nên khác biệt là nhận thức rằng không có trải nghiệm cá nhân nào độc lập với bối cảnh chính trị xã hội. Các chủ đề có chiều sâu được chủ nhân giải Nobel Văn học 2022 thể hiện bằng văn xuôi đơn giản, với mục đích đi đến trọng tâm trải nghiệm của bà.
Bên cạnh người lưu trữ, vai trò của Ernaux cũng giống nhà khảo cổ học – khai quật các di tích và ghép những mảnh vỡ lại với nhau để tìm ra vị trí của cá nhân trong dòng chảy lịch sử.
Trong Happening, Ernaux bộc bạch: “Có thể mục đích thực sự của cuộc đời tôi là để cơ thể, cảm xúc và suy nghĩ của tôi trở thành viết lách. Nói cách khác, một thứ dễ hiểu và phổ biến khiến sự tồn tại của tôi hòa vào cuộc sống và tâm trí của người khác”.
Mối tình sai trái
Là nhà văn nổi tiếng ở Pháp, Annie Ernaux mới chính thức ra mắt thế giới vài năm gần đây khi những cuốn sách của bà được dịch ra tiếng Anh.
Trong hơn 20 tác phẩm được xuất bản, nhà nữ quyền sinh năm 1940 nhiều lần đề cập đến mối quan hệ tình ái với những người đàn ông từng đi qua cuộc đời bà và tất cả đều không có cái kết đẹp.
Với cuốn A Girl's Story (2016), Ernaux kể về những rung động đầu đời, trải nghiệm tình dục đầu tiên ở tuổi 18 đến khi bị bạn trai bỏ rơi, phải chịu đựng những lời khinh miệt, ánh mắt kỳ thị.
Trong cuốn A Frozen Woman, Ernaux đưa người đọc vào chứng kiến cuộc hôn nhân không hạnh phúc với người chồng luôn nghi kỵ, kìm hãm sự phát triển của bà.
Ernaux chán ngán cuộc sống làm vợ, làm mẹ tẻ nhạt, an phận, cũng dần thấy mệt mỏi khi phải sống cùng người đàn ông không nhìn được giá trị của bà. Sau khi ly hôn, nữ nhà văn tuyên bố không tái hôn để được sống cuộc đời tự do và thỏa thích theo đuổi đam mê.
Cuốn The Possession (2002) là chuyện tình của tác giả với W, người đàn ông mà bà gắn bó suốt 6 năm. Bằng ngôn từ trần trụi, Ernaux mô tả chân thực về sự ghen tuông và chiếm hữu. Cuối cùng, bà lựa chọn bỏ đi.
Tuy nhiên, chấn động nhất phải kể đến mối quan hệ ngoài luồng với S, nhà ngoại giao nước ngoài trẻ tuổi hơn đã có vợ. Ernaux dành hẳn hai cuốn hồi ký Getting Lost (2022) và Simple Passion (1991) để chia sẻ chi tiết.
Simple Passion tập trung sự si mê của Ernaux dành cho người tình. Cô hiểu bản thân chỉ là tình nhân nhưng không ngăn được bản thân ngày một lún sâu vào mối quan hệ sai trái đến mức ám ảnh. Ernaux kể đồng ý tham dự cuộc hội thảo ở Copenhagen (Đan Mạch) chỉ để có cớ gửi bưu thiếp cho S. Nữ tác giả không e ngại dùng ngòi bút tái hiện từng chi tiết những lần ân ái của hai người.
Đây từng là cuốn sách bán chạy nhất ở Pháp, nhưng đồng thời khiến Ernaux hứng chịu chỉ trích dữ dội từ cả công chúng lẫn giới chuyên môn với cáo buộc chứa nội dung khiêu dâm và bất chấp chuẩn mực đạo đức.
Trên tờ Libération, Ernaux tiết lộ “đứa con tinh thần” mang đến cho bà nhiều kẻ thù và khiến giai cấp tư sản nổi giận. Bà cũng bị một số đồng nghiệp ở Pháp khinh miệt vì là phụ nữ không đứng đắn.
Tuy vậy, “làn sóng” công kích đó không thể ngăn cản Ernaux cho ra đời cuốn sách thứ hai về người tình bí mật càng trần trụi và táo bạo hơn. Getting Lost phản ánh cuộc đời tác giả giai đoạn 1988–1990, khoảng thời gian bà đắm chìm trong những cuộc hoan lạc không có giới hạn với S.
“Thật tốt khi lần đầu tiên được ở bên anh ấy. Đúng là chàng trai trẻ trên giường sẽ khiến tâm trí không còn thời gian và tuổi tác… Tôi không làm tình như một nhà văn. Tôi làm tình như thể đó là lần cuối, chỉ đơn giản là sinh vật sống”, trích đoạn trong Getting Lost.
Mối tình bị cấm đoán kết thúc do S phải trở về trước. Trong sách, Ernaux kể S trao cho bà nụ hôn cùng lời hứa hẹn trở lại. Đối với nữ nhà văn, sự vắng mặt của S nằm ngoài sức chịu đựng, gợi nhớ đến cái chết của mẹ bà. Thời gian đầu, bà còn mơ tưởng người tình quay lại. Bà hiểu người đàn ông đó không yêu bà nhiều như cách bà trao trái tim.
“Đôi khi tôi tự hỏi mục đích viết lách của tôi là để tìm hiểu xem liệu những người khác từng làm hoặc cảm thấy những điều tương tự không, hay để họ xem những trải nghiệm đó là bình thường. Có lẽ tôi cũng muốn họ sống lại những cảm xúc mà họ quên rằng từng đọc về chúng ở đâu đó”, Ernaux viết trong Simple Passion.
Theo Tú Oanh (Tiền Phong)