Tại sao cần phải chọc ối?
Chọc ối hay chọc dò màng ối, đôi khi được gọi là amnio, một loại xét nghiệm trước khi sinh được sử dụng chủ yếu để chẩn đoán các bất thường về gene và dị tật bẩm sinh, cũng như dị tật ống thần kinh.
Theo các bác sĩ sản khoa, chọc ối được thực hiện khi nghi ngờ có bất thường về gene hoặc thai nhi. Điều này rất có thể là do kết quả xét nghiệm máu không xâm lấn bất thường ở bệnh nhân hoặc sự bất thường nhìn thấy trên siêu âm trước khi sinh.
Chọc ối có thể được sử dụng để chẩn đoán:
- Rối loạn nhiễm sắc thể do thiếu, hư hỏng hoặc thừa nhiễm sắc thể, bao gồm trisomy 13 (hội chứng Patau), trisomy 18 (hội chứng Edwards), trisomy 21 (hội chứng Down) và hội chứng Turner.
- Rối loạn di truyền do đột biến gene như xơ nang, bệnh hồng cầu hình liềm và bệnh Tay-Sachs.
- Dị tật ống thần kinh, bao gồm nứt đốt sống và thiếu não.
- Nước ối cũng có thể kiểm tra một số bệnh nhiễm trùng trước khi sinh và bệnh Rh.
- Điều trị chứng đa ối (tình trạng tích tụ nước ối).
Chọc ối được gọi là xét nghiệm chẩn đoán trước sinh vì nó xác định xem thai nhi có bị rối loạn di truyền hay không. Mặt khác, các xét nghiệm sàng lọc trước khi sinh, bao gồm xét nghiệm máu và siêu âm, chỉ có thể cho biết liệu thai nhi có nguy cơ mắc chứng rối loạn cao hơn hay không.
Thông thường, thai phụ được đề nghị chọc ối khi tuổi mẹ cao, vì nguy cơ tình trạng nhiễm sắc thể tăng sau 35 tuổi, gia đình có tính di truyền, trẻ sinh lần trước hoặc thai nhi bị dị tật bẩm sinh, có kết quả xét nghiệm sàng lọc trước sinh bất thường hay kết quả siêu âm bất thường.
Quyết định chọc ối phụ thuộc nhiều vào sự lựa chọn của thai phụ, cha mẹ muốn xác định xem nhiễm sắc thể của thai nhi có bình thường hay không. Quá trình chọc ối diễn ra trong khoảng 30 phút. Các bác sĩ sẽ siêu âm xác định vị trí chọc ối ở một khoảng cách an toàn cho thai nhi. Trong quá trình thực hiện, mẹ bầu sẽ cảm thấy đau rút, nhói. Mức độ đau, nhói như thế nào tùy thuộc vào từng thai phụ và giai đoạn thai kỳ.
Chọc ối là xét nghiệm chẩn đoán tiền sản được thực hiện phổ biến nhất trong tam cá nguyệt thứ hai cho phụ nữ mang thai. Thông thường, xét nghiệm này được thực hiện trong khoảng từ 15 đến 19 tuần của thai kỳ. Xét nghiệm trước 15 tuần có thể gây hại cho thai nhi đang phát triển.
Những rủi ro có thể gặp phải khi chọc ối
Chọc ối là một thủ thuật an toàn và có độ chính xác cao. Tuy nhiên, nó có một số rủi ro nhất định:
- Sảy thai. Chọc ối trong tam cá nguyệt thứ hai có nguy cơ sẩy thai nhẹ - khoảng 0,1 đến 0,5%. Nghiên cứu cho thấy rằng nguy cơ sảy thai cao hơn nếu chọc ối trước 15 tuần của thai kỳ.
- Rỉ ối. Hiếm khi nước ối bị rò rỉ qua âm đạo sau khi chọc ối.
- Vết thương do kim. Trong khi chọc dò ối, em bé có thể di chuyển một cánh tay hoặc chân vào đường đi của kim. Tuy nhiên, chấn thương kim nghiêm trọng là rất hiếm.
- Nhạy cảm Rh. Hiếm khi, chọc ối có thể làm cho các tế bào máu của em bé đi vào máu của mẹ. Nếu bạn có máu Rh âm tính, bạn có thể sẽ được tiêm globulin miễn dịch Rh (anti D) sau khi chọc dò nước ối. Điều này sẽ ngăn cơ thể bạn sản xuất kháng thể Rh có thể đi qua nhau thai và làm hỏng các tế bào hồng cầu của thai nhi.
- Nhiễm trùng ối, tử cung. Rất hiếm khi chọc ối có thể gây nhiễm trùng tử cung và nhiễm trùng ối
- Tăng nguy cơ lấy truyền chéo: Nếu bạn bị HIV/AIDS thì có thể truyền sang con bạn trong quá trình chọc dò nước ối.
PN (SHTT)